Trang

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

LỜI BÌNH CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN THẾ QUANG


VẺ ĐẸP CỦA THƯỜNG DÂN

Lời bình của NGUYỄN THẾ QUANG (Nghệ An)
                                     
          Tám cặp lục bát, mười sáu dòng thơ giản dị mà sao cứ ám ảnh mãi người đọc về bức chân dung Thường dân rất quen mà lừng lững diệu kỳ.
          Đông thì chât/ ít thì thưa. Bao giờ sự hiện diện của họ cũng có ý nghĩa đối với cuộc đời. Nguyễn Long dùng hàng loạt hình ảnh vừa rất cụ thể, vừa có sức khái quát lớn: Khi làm cây mác cây chông/ khi thành biển cả, khi không là gì. Cây mác cây chông giữ yên bờ cõi, biển cả. Để tạo sự vững yên, tốt lành cho xã tắc, thường dân bao giờ cũng có vai trò quyết định trong những biến động của lịch sử. Nguyễn Long khéo tổ chức những hình ảnh quen thuộc mở ra một trường nghĩa lớn. Nhiều người đã dùng hình ảnh cỏ để chỉ những thân phận bình thường nhỏ nhoi, Nguyễn Long vẫn dùng hình ảnh đó, nhưng có một ý tưởng, một phát hiện mới: Thấp cao đâu có làm chi/ cỏ ngàn năm vẫn xanh rì cỏ thôi. Trong hành trình dằng dặc của nhân loại, bao kẻ không còn là thường dân lao vào cuộc tranh chấp, giành giật thấp cao, danh vọng, quyền lực, làm biến đổi bao thành quách, tiêu ma bao triều đại, gây lên bao tội ác, biến đổi con người, còn thường dân cỏ vẫn xanh rì cỏ - màu xanh cốt cách không phai nhạt, không thay đổi, không lẫn lộn với màu sắc nào khác.

NHÀ VĂN ĐỨC HẬU BÌNH BÀI THƠ THƯỜNG DÂN


THƯỜNG DÂN QUA LĂNG KÍNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI

                                                                            Nhà văn Đức Hậu

          Tôi đọc được bài thơ Thường dân của Nguyễn Long khi mới in trên tờ báo của địa phương, và đã ngồi lặng hồi lâu trước trang báo. Sau đó tôi gặp ngay tác giả để nói sự xúc động sâu sắc của mình. Như có một từ trường huyền bí, âm hưởng của bài thơ lan truyền rất nhanh trong công chúng trước khi nó được trao tặng giải A cuộc thi Thơ lục bát của báo Văn nghệ Trẻ.
Do sự cởi mở thái quá về xuất bản trong những năm qua, hàng ngày đọc giả như chìm ngập trong thác lũ thơ, không ít người đã lãnh cảm với thơ và thờ với sự lựa chọn giá trị thơ. Trong bối cảnh đó, Thường dân đi vào lòng người một cách lặng lẽ và ở luôn trong đó như một sự bình dị và thân thiết. Đã có nhiều bài của các nhà thơ, nhà phê bình phân tích, bình luận bài thơ này. Tuy nhiên cũng như các tác phẩm thành công khác, phần nghĩa rộng của bài thơ còn ít được phân tích để thấy hết tính đa tầng về ý nghĩa của tác phẩm.

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

NHÀ THƠ ĐỖ TRỌNG KHƠI BÌNH BÀI THƠ THƯỜNG DÂN


THƯỜNG DÂN CUỘC HOÁ THÂN NHẬP PHẬN

          Lời bình của ĐỖ TRỌNG KHƠI:

         Bài thơ có 4 khổ, chia theo thể lục bát được 8 cặp. Chỉ với từng ấy câu chữ, như Thường dân mang trong nó một dung lượng không nhỏ.
         Đông thì chật, ít thì thưa/ Chẳng bao giờ thấy dư thừa thường dân… Cặp lục bát số 1 này xuất hiện có tính chất xác định vị trí, thì đến cặp số 8 kết bài: Hoà vào trời đất mà xanh/ Vô tư mấy kiếp mới thành thường dân, thì vị trí của lớp người thường dân đã trở nên một vị thế cao đẹp, đáng tôn vinh. Và điểm mở của tư tưởng thơ hé lộ ngay ở câu bát đầu bài, qua hai chữ “dư thừa”. Có một nguyên tắc căn bản trong đời sống, là tính nhị phân, đa thành phần. Khi đã xác định về cái gì đó là đẹp tất có cái đối chứng, so sánh với nó là cái xấu.vv… Ở trường hợp thơ này, khi tác giả đã viết “chẳng bao giờ thấy dư thừa thường dân” hẳn có nghĩa lớp thường dân “chẳng dư thừa” ở đây đã được cân nhắc so sánh với một lớp người nào đó đang “bị dư thừa”. Phải chăng guồng máy cán bộ công chức nhà nước nhiều phen phải “giảm biên” đã cho tác giả so sánh này? Thường dân – vốn là một tầng lớp được ví với cỏ: Ngàn năm cỏ vẫn xanh rì cỏ thôi, tưởng đã rộng khắp đến  cơ man, thừa thãi mà tình cảm, tư tưởng thơ lại đưa ra nhận xét là “không – dư – thừa”, quả đây là một minh định, một phát giác mang tính nhân bản sâu sắc. Và nữa, dùng cụm từ “không dư thừa” làm điểm quy chiếu, soi chiếu tới câu thơ thứ 12 sẽ cho nhận diện rõ hơn bản chất một lớp người, loại người khác phẩm chất: Mặc ai mua bán nổi chìm thiệt hơn. Và đặc biệt ở câu thứ 3, với ba chữ “tác tao sau”: Tác tao sau những vũ vần bão giông. Sau bão giông là mưa đền cây. Luật tư nhiên, tình cảm thiên nhiên là thế, vậy mà với “quy luật xã hội con người” trong cảnh thơ này thì khác. Đã có một sai biệt lớn xẩy ra

Thứ Ba, 24 tháng 7, 2012

CỐ NHÀ THƠ NGUYỄN BÙI VỢI BÌNH BÀI THƠ THƯỜNG DÂN


LỜI BÌNH BÀI THƠ THƯỜNG DÂN
CỦA CỐ NHÀ THO NGUYỄN BÙI VỢI:

          Tôi có quen dăm Nhà thơ và vài chục người làm thơ ở Thái Bình nhưng không biết Nguyễn Long là ai mà viết được bài thơ... đáo để thế này. Bài thơ nói về thân phận và cốt cách của người thường dân.
          Hai câu mở đầu rất chính xác, thông minh và hóm: Đông thì chật, ít thì thưa/ chẳng bao giờ thấy dư thừa thường dân. Cán bộ, công nhân viên trong cơ quan nhà nước thì còn có lúc thiếu, lúc thừa. Thiếu thì tuyển thêm, thừa thì giảm biên, định biên, còn cái anh thường dân thì chẳng bao giờ thừa! Đông nhất trong đám thường dân ấy là nông dân: Quanh năm chân đát đầu trần/ tác tao sau những vũ vần bão giông/ khi làm cây mác cây chông/ khi thành biển cả, khi không là gì. Tác tao là một từ dùng ép. Tác giả muốn nói ý tao tác nhưng dùng chữ tao tác thì thanh điệu của câu thơ hỏng hẳn, nhưng bỏ hình thức để giữ lấy một nội dung thật chính xác: Khi làm cây mác, cây chông/ khi thành biển cả, khi không là gì.

CÁC NHÀ THƠ NHẬN XÉT VỀ BÀI THƯỜNG DÂN


MỘT SỐ NHẬN XÉT CỦA CÁC NHÀ THƠ VỀ THƠ THƯỜNG DÂN CỦA NGUYỄN LONG

Nhà thơ Vũ Quần Phương:

Thơ Nguyễn Long bộc lộ một cảm xúc sâu nặng với người dân quê vất vả lam lũ, những người làm nhiều hưởng ít. Bài thơ Thường dân ca ngợi trong giọng chất chứa đòi lại lẽ công bằng cho người lao động. Ý thơ không mới, nhưng tác giả đã có những câu thơ chững chạc, khái quát cao, có sức ám ảnh: Khi làm cây mác cây chông/ khi thành biển cả, khi không là gì/ thấp cao đâu có làm chi/ cỏ ngàn năm vẫn xanh rì cỏ thôi...
Làng là nền tảng cảm xúc cho thơ lục bát của Nguyễn Long. Rõ ràng là thể thơ của ca dao đã ảnh hưởng tới hướng chọn đề tài, thậm chí đến điệu tâm hồn người viết. Làng mang vẻ đẹp ngàn đời. Đẹp trong cảnh vật: Đêm ngồi với bạn dưới cây/ vườn làng trăng rắc bạc đầy lối đi. Đẹp trong tình người: Trăm lần triết lý nông sâu/ để ta về lại với câu thật thà. Với Nguyễn Long, làng đã trở thành chuẩn chân lý và người nhà quê mang vẻ đẹp thuần khiết, trong trẻo có sức làm tươi lại, ngây thơ lại những hồn người héo úa cằn cỗi sau những bươn chải giành giật ở đời.
Thơ lục bát Nguyễn Long đã vận dụng thuần thục thế mạnh của bút pháp cổ điển mà hiện nay chúng ta vẫn đang dùng.

                                      (Báo Văn nghệ Trẻ số 24 ngày 15/6/3003)



Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu:
         
Nguyễn Long đoạt giải A cuộc thi thơ lục bát của Tuần báo Văn nghệ năm 2003.
          Có nhiều người làm thơ lục bát nhưng Nguyễn Long đã tạo cho mình một dòng chảy riêng không lẫn với người khác. Dòng chảy ấy khởi nguồn từ mảnh đất làng quê thuần phác, đôn hậu. Tác giả có nhiều bài nói về làng quê với nhiều góc độ khác nhau như: Làng tôi ở phía dòng sông, Về làng, Làng vào vụ gặt, Kiếp làng, Gọi làng, Ở làng Vũ Đại bây giờ... Tác giả viết về đất quê, người quê với bao nhiêu cảnh ngộ chìm nổi vui buồn.
          Có thể dẫn chứng được nhiều câu thơ hay trong tập thơ Thường dân của Nguyễn Long. Tác giả khắc hoạ hình ảnh người thím đơn côi sống quanh quẩn trong làng quê nghèo khó, chỉ đến khi từ giã cõi đời mới được thanh thản siêu thoát: Khổ đau à, khổ đau ơi/ cất xong một gánh phận đời nhẹ tênh/ cầu vồng bảy sắc chênh vênh/ mây giăng chín nhịp gập gềnh thím qua....
          Thơ lục bát của Nguyễn Long có tả, có truyện. Khi tả Nguyễn Long biết chắt lọc, đôi khi chỉ là một nét chấm phá rất gợi mà lồng được tâm trạng riêng. Truyện trong thơ Nguyễn Long thường đi vào cảnh ngộ thân phận nên dễ xúc động lòng người. Có nhiều câu thơ lục bát của Nguyễn Long tưởng như quen thuộc, đơn giản trong nhịp điệu, dễ đọc, dễ hiểu, nhưng thật khó viết. Bởi không sống gắn bó với làng quê, không có hồn quê, chất quê thì không thể có cái nhìn chân thực vừa giầu sức khái quát đến ngần ấy.

                                                (Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 586, tháng 11/2003)


         

Nhà thơ Ngô Văn Phú:

          Thể hiện những con người bình dân, những cảnh đời bình thường nhưng thơ Nguyễn Long đã không bị cái véo von truyền thống, sự dàn trải thường mắc khi làm thơ lục bát. Anh đã tìm được những ý tưởng sâu sắc cho đề tài và bởi cảm xúc mạnh chứa chất từ lâu nên có những bài thơ hay, những câu thơ bỏ bùa mê cho bạn đọc...

           (Văn nghệ Trẻ số 17+18 ngày 27/4/2003)



Nhà thơ Đỗ Bạch Mai:
         
          Tập thơ Thường dân chỉ với 25 bài thơ thôi nhưng đủ để bạn đọc nhận ra giọng thơ riêng của Nguyễn Long, một giọng thơ da diết những âm hưởng dân ca nhưng vang sâu vào lòng người. Có thể nói thơ Nguyễn Long đã góp vào nét mới cho thơ lục bát ở ngôn từ gần gũi, mênh mông mà chứa nhiều hơi thở của cuộc sống...

                                                (Văn nghệ Trẻ số 42, ngày19/10/2003)


Nhà thơ Kim Chuông:


          Thơ lục bát Nguyễn Long là nét vượt trội của khả năng khai thác những câu chuyện bình dị, những thân phận gần gũi mà da diết vang sâu.
Với thể thơ dân tộc quen cũ, dễ sáo mòn, thơ lục bát Nguyễn Long đã góp vào nét mới ở ngôn ngữ, hình ảnh dư vang được lặn chìm loang thấm trước thân phận đời người, trước nhân tình thế thái...

                                     (Tạp chí Nghề báo số 3/2003)








Tran Tam (Quang Ninh)

Tôi đã có dịp ngồi chuyện trò với Nguyễn Long. Thú thật, trước đó tôi chưa nghe nhiều về ông. Cầm tập thơ của Nguyễn Long tặng về đọc, tôi chú ý ngay bài thơ này và cả những bài thơ lục bát của ông trong tập. Tôi cho rằng những bài thơ lục bát của Nguyễn Long đứng song hành với những bài thơ lục bát nổi tiếng của nền văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới. Từ bấy đến nay hơn chục năm rồi, tôi chưa có dịp gặp lại ông!


MINH PHÚC
VIỆT NAM LỤC BÁT NĂM NHÀ 

Truyện Kiều giở đọc mỗi khi
Chao ôi, Cụ Nguyễn lâm ly thế này
Say lại đọc, đọc càng say
Đời người - bể khổ - đất dày - trời cao!

Tản Đà - Non Nước kết giao
Nước Non ta mãi non cao nước còn
Ngàn năm chớp bể mưa nguồn
Nước Non ta mãi nước còn non cao.

Nguyễn Bính - Hoa thắm rượu đào
Hồn quê bướm trắng bay vào giấc mơ…

Nguyễn Duy - Đất sỏi cằn khô
Rễ siêng tre tự bao giờ vẫn xanh     
Yêu nòi tre dựng luỹ thành
Yêu quê bám giữ đất lành cha ông.

Nguyễn Long, muôn triệu tấm lòng
Thường dân  là mỗi ta trong cộng đồng
Khi làm cây mác, cây chông
Khi thành biển cả, khi không là gì!
                         *
Ngàn năm rồi sẽ qua đi
Những thiên tuyệt bút vẫn vì Nước Non
Năm nhà lục bát mãi còn
Sáng sông núi Việt, ngọt nguồn thơ ca...
                                                         Hà Nội, 2-10-2010
Thơ Minh Phúc trên trangan.com

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2012

ĐỌC LẠI HỊCH TƯỚNG SỸ

Hịch tướng sĩ

của Trần Hưng Đạo, người dịch: Trần Trọng Kim



Ta thường nghe chuyện: Kỷ Tín liều thân chịu chết thay cho vua Cao-đế; Do Vu lấy mình đỡ ngọn giáo cho vua Chiêu-vượng; Dư Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước; Kính Đức là một chức quan còn nhỏ, mà liều thân cứu vua Thái-tông được thoát vòng vây; Kiểu Khanh là một bề tôi ở xa, mà kể tội mắng thằng Lộc Sơn là quân nghịch-tặc. Các bậc trung-thần nghĩa-sĩ ngày xưa, bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả-sử mấy người ấy cũng cứ bo bo theo lối thường tình, chết già ở xó nhà thì sao cho lưu danh sử-sách đến nghìn muôn đời như thế được?

Thứ Tư, 18 tháng 7, 2012

VĂN HỌC CÓ CÒN LÀ NHÂN HỌC

VĂN HỌC CÓ CÒN LÀ NHÂN HỌC?

TRẦN ĐĂNG KHOA
Nha tho Tran Dang Khoa giao luu voi ban doc o Quynh Phu (Thai Binh)
Nhà thơ Trần Đăng Khoa băn khoăn: “Nhìn lại những thước phim tư liệu về Đại hội Đảng và các kỳ họp Quốc Hội trước đây, quây quần bên Bác là Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Trà Giang, Lưu Hữu Phước và rất nhiều nhà hoạt động văn hóa. Trong Đại Hội Đảng của chúng ta vừa rồi, có đến 1.700 đại biểu, mà không có đại biểu nào đại diện cho giới văn chương. Trong khi đó, ở bên Trung Quốc, một nhà văn ngang tàng như Thiết Ngưng còn được đưa vào hàng ngũ những người Lãnh đạo cao nhất của đất nước. Ở ta, nhà thơ Hữu Thỉnh, một tác giả lớn, Chủ tịch của cả hai hội lớn: Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, mà cũng không phải là đại biểu được đến dự. Trong số hơn 500 Đại biểu Quốc Hội, trong đó có đầy đủ các thành phần xã hội, đặc biệt có rất nhiều các nhà doanh nghiệp, trong đó còn có cả đại biểu phải miễn nhiệm, giữa chừng, nhưng cũng vẫn không có đại biểu nào đại diện cho giới Văn hóa. Đó là điều rất không bình thường”.