THƯỜNG DÂN CUỘC HOÁ THÂN NHẬP PHẬN
Lời bình của ĐỖ TRỌNG KHƠI:
Bài thơ có 4
khổ, chia theo thể lục bát được 8 cặp. Chỉ với từng ấy câu chữ, như Thường dân mang trong nó một dung lượng
không nhỏ.
Đông thì chật, ít thì thưa/ Chẳng bao giờ
thấy dư thừa thường dân… Cặp lục bát số 1 này xuất hiện có tính chất xác
định vị trí, thì đến cặp số 8 kết bài: Hoà
vào trời đất mà xanh/ Vô tư mấy kiếp mới thành thường dân, thì vị trí của
lớp người thường dân đã trở nên một vị thế cao đẹp, đáng tôn vinh. Và điểm mở
của tư tưởng thơ hé lộ ngay ở câu bát đầu bài, qua hai chữ “dư thừa”. Có một
nguyên tắc căn bản trong đời sống, là tính nhị phân, đa thành phần. Khi đã xác
định về cái gì đó là đẹp tất có cái đối chứng, so sánh với nó là cái xấu.vv… Ở
trường hợp thơ này, khi tác giả đã viết “chẳng
bao giờ thấy dư thừa thường dân” hẳn có nghĩa lớp thường dân “chẳng dư
thừa” ở đây đã được cân nhắc so sánh với một lớp người nào đó đang “bị dư
thừa”. Phải chăng guồng máy cán bộ công chức nhà nước nhiều phen phải “giảm
biên” đã cho tác giả so sánh này? Thường dân – vốn là một tầng lớp được ví với
cỏ: Ngàn năm cỏ vẫn xanh rì cỏ thôi,
tưởng đã rộng khắp đến cơ man, thừa thãi
mà tình cảm, tư tưởng thơ lại đưa ra nhận xét là “không – dư – thừa”, quả đây
là một minh định, một phát giác mang tính nhân bản sâu sắc. Và nữa, dùng cụm từ
“không dư thừa” làm điểm quy chiếu, soi chiếu tới câu thơ thứ 12 sẽ cho nhận
diện rõ hơn bản chất một lớp người, loại người khác phẩm chất: Mặc ai mua bán nổi chìm thiệt hơn. Và
đặc biệt ở câu thứ 3, với ba chữ “tác tao sau”: Tác tao sau những vũ vần bão giông. Sau bão giông là mưa đền cây.
Luật tư nhiên, tình cảm thiên nhiên là thế, vậy mà với “quy luật xã hội con
người” trong cảnh thơ này thì khác. Đã có một sai biệt lớn xẩy ra
!
Thường dân – là một ấn pháp thể hiện
sáng rõ một phương thức sống về một lớp người quanh năm chân đất đầu trần băng
qua thiên sai vạn biệt của thời thế, họ sẵn sàng bằng tất cả tinh thần, phẩm
hạnh của mình cho cuộc hoá thân làm “cây mác cây chông”, làm “biển cả” để tạo
lập cuộc đời. Khi xã hội yên bình thì hơn ai hết, chính lớp người này lại trở
về: Hoà vào trời đất mà xanh, bình dị
với thiên nhiên hoa cỏ, lặng in với lẽ “không là gì”. Mang sức ôm trùm ấy, thi
phẩm Thường dân hiện hữu như một khúc thương ca, bằng vẻ đẹp giai điệu ngôn từ
vừa tượng hình rõ một tầm vóc, vừa đầy vẻ bí nhiệm của tâm thức thiên nhiên cho
phép cất lên tiếng gọi cuộc hoá thân nhập phận. “Huyền đồng vật ngã” – Đây
chính là một giấc mơ lớn chảy từ thời Trang – Lão và nó vẫn tồn tại như một giá
trị bản thể, nhân bản luôn có tác dụng giáo dưỡng con người mọi thời.
Bài Thường dân được cấu thành bởi 8 cặp lục
bát, với 16 câu thơ. Trong 16 câu thơ đó, chỉ duy có 1 câu thể hiện hình ảnh về
một loại người khác loại thường dân, đó là câu: “Mặc ai mua bán nổi chìm thiệt
hơn”. Cách cấu tạo các câu, cặp thơ, lấy
15 câu thể hiện lớp người “thường dân” và tinh thần, tình cảm 15 câu thơ này tự
tin, mạnh mẽ, tốt lành bao nhiêu thì 1 câu kia lại hiện ra vẻ mờ tối, hiểm trở
bấy nhiêu. Nếu xem đây là một thủ pháp nghệ thuật, thì rõ ràng thủ pháp nghệ
thuật này được sử dụng một cách đắc địa. Nó tỏ rõ được sức mạnh chân lý, và
khảng định về chân giá trị trong cõi nhân gian này.
Trong cõi
nhân gian bé tẹo mà vô cùng đông đúc ngày nay, có cảm giác chỉ thêm một hiện
diện cũng dễ dẫn đến tràn đầy. Một giọt
người nào đó được rót thêm vào có thể sẽ làm tràn ly nhân loại! Tuyệt đẹp thay cho lớp người thường dân, đông dù
“chật” nhưng chẳng hề “thừa”. Thi phẩm Thường
dân của Nhà thơ Nguyễn Long đã xác định sáng ngời chân giá trị này.
ĐTK
(In trên
báo Tiền Phong số 90, ngày 6/5/2003)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét