Bình thơ
Đông thì chật
, ít thì thưa
Chẳng bao giờ thấy dư thừa thường dân.
Quanh năm chân đất đầu trần
Tác tao sau những
vũ vần bão giông
Khi là cây
mác cây chông
Khi thành biển cả, khi không là gì
Thấp cao
đâu có làm chi
Ngàn năm cỏ vẫn xanh rì cỏ thôi .
Ăn của đất,
uống của trời
Dốc lòng cởi dạ cho
người mình tin
Ồn ào mà vẫn
lặng im
Mặc ai mua bán nổi
chìm thiệt hơn
Chỉ mong ấm
áo no cơm
Chắt chiu dành dụm thảo
thơm ngọt lành.
Hoà vào
trời đất mà xanh
Vô tư mấy kiếp mới
thành thường dân ./.
(Giải
Nhất thơ Lục bát toàn quốc
Nguyễn Long (NL) đã dựng được một tượng
đài cho người dân thường
cả trong thời chiến
và thời bình bằng chính thể thơ của họ, thơ lục bát, với
tầm khái quát rộng, sâu, đa chiều, cô đúc hiếm có.
1/Thường dân vĩ đại và vạn đại bởi số
lượng và địa vị của họ :
NL làm người đọc giật mình về cái con
số nghịch lí “ đông.../Chẳng... thừa”.
Nhà ái quốc thời cận đại cũng đã từng làm cho thế hệ trước giật mình từ hướng
vua, sang hướng dân :
“
Sông xứ Bắc, núi xứ Đông
Nếu không
dân cũng là không có gì.”
( thơ chí sĩ yêu nước trước CMT8)
Cái mới nhất của NL là ở cách nhìn vào cái
con số khô khốc về tỷ lệ thường dân, mà vĩ đại về định lượng, tạo nên nội dung
của quốc gia, dân tộc.
Ẩn ý chỉ có quan chức thừa, thay được, chứ
Dân “ Chẳng bao giờ...dư thừa”, không thay được. Bởi “ quan nhất thời, dân vạn
đại”. Vậy Dân là nền tảng của cộng đồng xã hội. Mạnh Tử đã từng dũng cảm phát
hiện ngay từ thời phong kiến : “ Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Đó
là một quả bom tri thức làm tỉnh ngộ thời quân chủ : Dân là gốc. Dân ở vị trí tầm
thường, như “cỏ”, sát mặt đất, rộng mà không cao. NL đang thú vị ẩn ý, bóng bẩy, giấu sâu kín cái chữ Gốc đó. “ Ý kị
nông, mạch kị lộ”. NL đạt được hai cái “ kị ” ấy.
2/Thường
dân vĩ đại, thanh cao bởi “ chất ” thường dân:
Vậy “chất” thường dân có những đặc điểm gì
?
Mười bốn dòng thơ còn lại, NL điển hình hóa
qua những chi tiết điển hình, rồi cuối cùng khái quát ra cái bản chất của thường
dân “ Hòa vào trời đất mà xanh” xanh
tươi và bất diệt như trời đất, là một thành phần tan hòa vào đại tự nhiên mà có
thọ mệnh của đại tự nhiên.
Thường dân còn có thọ mệnh của xã hội nữa.
Đó là sự tu luyện, loại bỏ hết mọi tạp tính xã hội, mà tới được “ Vô tư ” thanh
cao nhất. Dân vô tư, quan chí công, đều thanh cao như nhau. Dân vô tư là do bản
chất, do tự nguyện. Quan chí công thì
còn phải do quản lí. Phát hiện ra bản chất dân là “vô tư”, đã là sâu sắc. Nhưng
“ Vô tư mấy kiếp mới thành thường dân” thì quả là NL đã khám phá mới về độ dầy, độ dài thời gian “mấy kiếp” của cái bản
chất “vô tư” đặc thù ấy của thường dân .
Những chi tiết điển hình chắt lọc ra để vẽ
nên bức tượng đài thường dân, khá toàn diện cụ thể về hình dáng, sức mạnh, vị
trí không gian và thời gian, quan hệ sở hữu, tính tình, ước vọng, rất nguyên
sơ, độc đáo không thể lẫn vào tầng lớp xã hội
nào khác. “Người đẹp vì lụa”, thì người thường dân “ chân đất đầu trần”
là đẹp hay xấu ? Đối với dân, cái khỏe là cái đẹp, cái có ích là cái đẹp. Nhưng
cái sự “ trần” ấy chủ yếu là nói cái đói rét cực khổ trẩn trụi chẳng có gì chở
che cho họ. Họ là người khổ nhất trong “vũ vần bão giông” của tự nhiên và xã hội,
đương nhiên rất dễ bị “ tác tao”, đập cho tan tác. Họ “ tác tao”, không chỉ là khốn khổ, mà còn yếu ớt, còn là
nạn nhân đáng thương của “bão giông” với cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Tiềm ẩn trong họ là nguồn sức mạnh rất thất
thường và độc đáo. Cái mạnh của thường dân có khi sắc nhọn thành “cây mác cây
chông”, có khi mênh mông vô bờ như “ biển cả”. Có lúc mềm nhũn “ khi không là
gì”. Một sức mạnh vô cùng bất ngờ, thường giấu kín một cách đáng gờm. Nguyễn
Trãi cũng đã từng viết “ Chở thuyền, lật thuyền, mới biết dân mạnh như nước”.
Thì ra thường dân khi tản ra, thật đáng khinh thường, ở dưới đáy, chẳng là gì.
Nhưng khi được tập hợp lại mới thấy sức mạnh ghê gớm. Ai tập hợp lai ? Người
phương Tây nói quần chúng chỉ là một dãy
số không vô nghĩa. Khi có một lãnh tụ đứng đầu, như thêm một con số 1, thì cái
dãy số không đó thành một dãy số có nghĩa, mạnh lớn vô cùng. Thì ra qui luật sức
mạnh là ở đây. Thường dân tản ra là vô nghĩa. Nhưng có lãnh tụ, tụ họ lại thì
vô cùng to lớn , vô địch. Mất lãnh tụ, thì
cái qui luât “ Hết quan , tàn dân” sẽ hiện ra, dân “ không là gì”. Điều
thú vị là cái qui luật sức mạnh bản chất ấy được NL thâu tóm vào có 14 chữ của thơ lục bát :
“ Khi làm cây mác cây chông/ Khi thành biển
cả, khi không là gì.” .Các chữ khác thì ai cũng viết được, nhưng hạ được 4 chữ
“ khi không là gì” thì câu thơ bật hẳn ra một bản chất, diễn tả khác người, và
rất Nguyễn Long, bạo, đúng, hóm và sâu.
Những phẩm chất khác, dân là cỏ rác ( thảo
dân), thì người Trung Quốc đã nói, dân “ mặc ai mua bán”, dân “thảo thơm” ...
chắc nhiều người khác nói được. Nhưng : “Ăn của đất, uống của trời/Dốc lòng cởi
dạ cho người mình tin” thì NL đã nói hộ cho không chỉ thường dân nói chung mà
chỉ rõ cái thành phần nông dân của họ, thanh cao tinh khiết, không làm hại ai,
và ngây thơ nữa.
3/ Tám câu lục bát, 16 dòng, cô đọng
thành bức tượng đài thường dân, là một bài thơ toàn bích. Tôi thử đặt “Thường
dân” ( Nguyễn Long- NL) bên cạnh “Tre Việt Nam” ( Nguyễn Duy- ND) thì thấy hai
bức tượng đài này đều toàn bích, nhưng phong cách khác nhau. Tre Việt Nam mượt
mà ngọt ngào trong giọng ru đưa mát rượi dưới bóng tre ngàn đời của dân tộc Việt.
Nghệ thuật hình tượng hóa so sánh ngầm cây tre Việt với dân tộc việt, ND thiên
về tình cảm yêu thương ca ngợi, tự hào mà tổng kết, thơ từ hồn mà ra, tự nhiên
mà trôi chảy.
NL nhìn thẳng vào người thường dân mà vẽ
trực tiếp, thiên về lí trí phát hiện và tổng kết, thơ từ trí mà ra, dằn vặt chắt
lọc mà thành.
ND nói bằng hình ảnh thơ, không nên hiểu thẳng.
NL nói bằng mệnh đề thơ, có thể hiểu thẳng được. Do đó cái sắc xảo của ND chìm
trong cái ngọt ngào. Cái sắc xảo của NL thẳng như thơ chính luận.
“Tre Việt Nam” hợp cho hát ru, “ Thường
dân” hợp cho cảnh báo. “Tre Việt Nam” thiên về dân tộc Việt, làm mọi ánh nhìn
hướng về hồn dân tộc. “ Thường dân” nói
hộ cho cả thường dân của dân tộc khác, hút mọi ánh nhìn thiên về mặt sức sống của
tầng nền xã hội.
Hai bài thơ phong cách khác nhau, nhưng
không thay thế cho nhau được.
“Tre Việt Nam” được chọn dạy 1 tiết trong
giảng văn của trường THPT. Nếu chưa có “Tre Việt Nam” trước đã ở vị trí ấy, thì
tại thời điểm này, có thể chọn “ Thường dân” làm hậu sinh kế nhiệm được.
Vũ Quốc Huệ
(Tac gia gui cho nguyenlong)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét