Trang

Thứ Bảy, 1 tháng 3, 2014

QUẦN THỂ NGỰA ĐÁ Ở THÁI BÌNH

Một quần thể tượng voiđá, ngựa đá, tượng những người lính bằng đá xếp thành hai hàng dọc trong ngôiđền thờ ở giữa tỉnh lúa Thái Bình là một điều kỳ lạ ít người biết đến.
Bởi lẽ, Thái Bình là tỉnhduy nhất không có núi đá nên sự có mặt của những pho tượng đá khổng lồ nặng hàngtấn đã tồn tại tại đây hàng trăm năm; cách thức đục đẽo, lối chạm khắc khéo léo,tinh vi… của những pho tượng này có thể so sánh với hàng tượng đá tại lăng vuaMinh Mạng trong Đại nội Huế…
Hơn cả, xung quanh quần thểtượng voi đá, ngựa đá này là những huyền thoại đầy bí ẩn!

<>Quần thể tượng voi đá,ngựa đá bí ẩn
Quần thể tượng voi đá, ngựađá, lính hầu bằng đá khổng lồ tồn tại duy nhất tại xã Chương Dương, huyện ĐôngHưng, tỉnh Thái Bình hàng trăm năm nay tọa lạc trong sân thờ của ngôi đền thờ vàlăng mộ Thiều quận công Phạm Huy Đĩnh.
Ông là một vị quan có cônglớn dưới thời vua Lê – chúa Trịnh khoảng thế kỷ 18, cuối đời, khi ông mất đãđược vua Lê – chúa Trịnh gia ân về quê xây phần lặng mộ và khu thờ.
Hàng trăm năm qua, dòng họPhạm Huy của xã Chương Dương, hậu duệ của ông sau bao đời đã truyền nhau thờ tự.
Quần thế tượng đá này baogồm một đôi voi đá, một đôi ngựa đá nằm phủ phục, xen kẽ là ba cặp tượng quânhầu bằng đá mang theo gươm, đao… đứng hầu. Ngay phía ngoài cổng của ngôi đền làmột cặp tượng đá sắp hai bên; phía ngay ngoài đường bên kia chiếc hồ hình chữnhật là một cặp tượng quân hầu bằng đá khác gác cổng. Lối bài trí, sắp đặt hệtnhư quần thể tượng đá tại lăng vua Minh Mạng trong Đại nội Huế.
 
Quần thể tượng voi, ngựa, người đá xếp thành hai hàng trong sân đền Từ Vũ tại xã Chương Dương, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Ảnh: Kiên Trung

Tổng số tượng đá cả người, cả ngựa, voi đá…là 14 pho tượng khổng lồ, có kích cỡ to hơn người thường. Mỗi pho tượng là mộtkhối đá liền khối, loại đá xanh chỉ có ở vùng núi đá Thanh Hóa – nơi nhà Hồ đãlấy để xây thành.
Ngoài ra, hai khối bia hình trụ có chân kê, cónắp đậy cũng bằng đá… là hai tấm bia hình trụ duy nhất Việt Nam: một tấm biakhắc bản tự do nhà bác học Lê Quý Đôn viết; một tấm bia khắc bản tự do cụ NguyễnNghiễm – thân sinh ra Đại thi hào Nguyễn Du viết.
Tượng hai người lính bằng đá chầu ngoài cổng đền. Ảnh: Kiên Trung

Tất cả đều có nội dung ghi lại lịch sử,xuất thân, cuộc đời nhiều công đức của Thiều quận công Phạm Huy Đĩnh cùng nhữngthông tin về việc vua Lê – chúa Trịnh vinh hiển cho dòng họ Phạm Huy điền thổ,ngân khố… xây dựng đền thờ Thiều quận công.
<>Từ Vũ gần 3 thế kỷ tồn tại!
Trong dự thảo “Phục hưng phường Báo ân sinh từThiều quận công” của dòng họ Phạm Huy có viết: Thiều quận công Phạm Huy Đĩnh quêxã Cao Mỗ, tổng Cao Mỗ, phủ Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình, nay là làng Cao Mỗ, xãChương Dương, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
Ông sinh giờ Tuất ngày 12/5 năm Bính Ngọ (năm1726) mất giờ Thìn ngày 18/11 năm Ất Mùi (1775). Thời gian sống và công hiến củaông khoảng giữa thế kỷ 18, đó là thời kỳ xã hội phong kiến Việt Nam duy trì thểchế vua Lê – chúa Trịnh.
Đây là quần thể tượng đá duy nhất ỏ miền Bắc có niên đại hàng trăm năm...

Từ nhỏ, Phạm Huy Đĩnh là người hiếu động,tính khí khác người. Ông là người quý tướng, sớm rèn luyện văn chương, võ nghệtheo nếp người xưa. Ông đỗ cử nhân rồi xuất thân, ban đầu là Thị nội ở phủ TĩnhVương, mọi việc đều đúng theo ý Chúa.
Phàm việc nghị án, tuần sát… đều rất mực trungthành với phủ liêu, sau được bổ nhiệm làm Tể tướng. Khi mất , ông được phongchính trực huân du Đại vương.
Tại sinh từ hiện nay còn hai tấm bia do Tiến sỹThượng thư Nguyễn Nghiễm (thân phụ Đại thi hào Nguyễn Du – tác giả cua TruyệnKiều bất hủ) và Bảng nhãn Thượng thư Lê Quý Đôn viết, đều ca ngợi ông, coi ônglà bậc đại trí, đại cường, là cây đại thụ ở đời (theo Đất và người Thái Bình,Trung tâm Unesco – Thông tin tư liệu lịch sử văn hóa Việt Nam, xuất bản năm2003).
Sân nhà thờ phủ rêu xanh cổ kính.

Sinh từ được nhân dân địa phương tân tạovào năm Cảnh Hưng 33 (1772) và là Từ Vũ của huyện Thần Khê, đến nay đã gần 240năm.
Bút lục trên hai tấm bia có ghi: “Ngài tiếpnối chí hướng của vị Tiên công, luôn nghĩ đến việc an dân, bảo vệ dân, hưng điềulợi, trừ điều hại, giúp đỡ khẩn cấp, gỡ bao mối rối trong triều ngoài quận. Cảnước đều chịu ơn ban tứ của ngài, kiêm cái uy vọng ngài vốn là bậc tài giỏi,nhanh nhẹn, nơi nơi vui mừng như đền đài xuân.
Dân yêu kính ngài như cha mẹ, coi ngài nhưngôi tuế tinh, nhờ vào bóng mát của cay cao bóng cả ai nấy ôm ấp trong lòng sựbáo đền có rác với ngài mà chưa thực hiện được”.
Bởi vậy, nhân dân địaphương hiệp lực lo toan xây dựng sinh từ. “Đây là mảnh đất yên ổn, hàm chứatừ lâu ánh sáng linh thiêng lại kiêm sự vừa vặn của quy mô đất đai mà làm đền bagian, bái đường 5 gian, phía ngoài làm nghi môn, chung quanh là tường bao. Tổngdiện tích của khu thờ tự là một mẫu tám sào sáu thước, một ao bán nguyệt ba sàomột thước hai tấc theo đúng nghi lễ thờ phụng muôn đời”.
Được tin này ông cũng khôngmuốn như thế. Để thuận lòng dân, ông đã bỏ 2.000 quan tiền chi phí việc điêukhắc trang trí, hơn 20 mẫu ruộng tốt làm nhu phí cho việc tần tảo nguyên vậtliệu.
Từ Vũ được xây dựng xong,định ra điều ước hàng năm để làm thọ. Đây là nơi hành lễ cầu chúc trăm tuổi, nơingưng đọng tình thần của một đời người. 
Ông Phạm Huy Bộc – cán bộ văn hoá xã, hậu duệ của Thiều quận công Phạm Huy Đĩnh của dọng họ Phạm 7 phái bên cạnh một pho tượng đá có chiều cao hơn 2 mét.

Ông lại cho phường Báo ân tiền cổ 500 quan và 17 mẫu ruộng để lấy tiền thuế chiphí vào việc hành lễ hàng năm; bổ cho tám thôn trong tổng mỗi thôn 300 quan tiềncổ, ruông từ 3 đến 5 mẫu; lượng thuế đồng niên mỗi mẫu là 03 quan tiền cổ, cộngvới tiền lãi để lo làm lễ.

Có hai lễ đượctổ chức trong một năm: ngày 12/5 (ngày sinh) và ngày 18/11 (ngày kỵ). Mỗi lễ mộtcon lợn, một mâm xôi, một vò rượu, cùng trầu cau, vàng mã.
Đúng ngày dân lễ lên đền Từ Vũ, tế xong, sản vậtđược đem ra chia đều cho dân thường trong thôn cùng ăn uống. Các xã, các thôn cólễ vật kính tế, người nội tộc Phạm Huy không được yêu sách kính biếu.
Riêng thôn Cao Mỗ, hàng năm phải làm thêm hai giỗbậc thân sinh ra Thiều quận công Phạm Huy Đĩnh.
Tại sinh từ, một hệ thống tượng (người, voi,ngựa) và bia đá bài trí ở sân chính đường, theo hình đồ vuông, đối xứng từngcặp, tổng số có 16 tiêu bản.
Trong đó gồm có 10 tượng người tả thực, mỗi ngườimột vẻ sinh động; hai tượng voi, hai tượng ngựa đá.
Đặc biệt nhất là hai bia hình trụ tròn, có đỉnhvà đế cao 2,05 mét; đỉnh bia là khối đá dật ba cấp hình vành khăn, theo hìnhtháp.  Thân bia cao 1,1m; chu vi 2,2 mét. Mặt bia chạm văn tự chữ Hán cổgần như phủ kín.
Theo nghiên cứu của các nhà sử học và mỹ thuật,đây là hai tấm bia cổ điêu khắc đá quý hiếm duy nhất từ trước đến nay.
Toàn bộ đền thờ Từ Vũ nhìn từ phía bên ngoài chiếc hồ bán nguyệt.

Phía sau sinh từ là một lăng mộ thời hậuLê, quách mộ bằng đá ong hình hộp có diện tích 4,0m x 1,7m x 1,5m. Nguyên liệugắn kết các viên đá ong đến nay vẫn chưa biết rõ, nhưng các mạch đá khít nhau vàthẳng như sợi chỉ đặt.
Tương truyền, những viên đá ong có thể chuyển từvùng Bất Bạt, Sơn Tây về - quê hương của cụ Tổ họ Phạm 7 phái.
Vì sao và cách nào có thể vận chuyển được nhữngpho tượng khổng lồ nặng hàng tấn từ vùng đồng rừng xa xôi hiểm trở về đất TháiBình? Những bí ẩn của những pho tượng này cũng trở thành điểm ngắm của những kẻđào trộm trộm, săn cổ vật… “viếng thăm”…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét