THƠ HAY THÁI BÌNH
Thế nào là thơ đã khó, thế
nào là thơ hay còn khó hơn nhiều. Đã bao nhiêu lời bàn kim cổ mà vẫn không có
điểm dừng.
Nay nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Hội VHNT
Thái Bình ( 1970 – 2020), tôi thử chọn thơ hay Thái Bình cũng chẳng có gì làm chuẩn,
chỉ căn cứ vào hai điều:
-
Thơ Thái Bình là thơ của những
người sống và làm việc ở Thái Bình. Những người quê Thái Bình đã sinh sống và
sáng tác ở nơi khác vài ba chục năm trở lên và những người đã gắn bó với
văn chương TB nhưng hiện không ở TB nữa
như: Trần Anh Thái, Đặng Hấn, Nguyễn Linh Khiếu, Kim Chuông, Bùi Hoàng Tám, Đàm
Chu Văn... thì không tính là thơ TB. Những
người quê các tỉnh khác nhưng đã sông, làm việc và viết thơ ở TB vài ba chục
năm nay, hơi thỏ của thơ vẫn là chất TB thì
gọi là thơ TB.
-
Thơ hay là do cấ nhân tôi cảm
nhận và lựa chọn chứ không dựa trên thứ bậc, điều kiện nào.
Khi giới thiệu các tác phẩm thơ cũng vậy, không xếp thứ bậc trên dưới trước sau, tiện ai thì giới thiệu trước, người chưa có đủ văn bản tài liệu thì giới thiệu sau, và đã là hay thì cũng không cho là ai hơn ai kém cả.
XUÂM ĐAM
Tên thật là Phạm Xuân Đam.
Quê Làng Mây, xã Thượng
Hiền, Kiến Xương, TB
Giáo viên dạy văn
Sinh năm 1943, mất năm 2015
Hội viên Hội VHNT Thái Bình
TÌNH MẸ
Đã nên hạt thóc mẩy tròn
Còn lo chớp bể mưa nguồn mẹ ơi
Cha đi mấy chục năm trời
Một thời con gái mẹ tôi chờ chồng.
Ai ru con sáo sang sông
Lời ru cắt ruột cắt lòng đêm thâu
Cầm lòng một bát cơm nâu
Dưới chân nước cóng trên đầu mưa bay.
Mẹ tôi như nhánh mạ gầy
Hoá thân làm bát cơm đầy nuôi tôi
Miếng trầu không dám mặn vôi
Sợ đôi má đỏ người đời dèm
pha.
Giọt mưa đau ở mai nhà
Mưa trên lòng mẹ hơn là trời mưa...
Tôi ngồi nhớ mẹ tôi xưa
Mùa xuân đến sớm... người chưa thấy về.
KÍNH THƯA CON NGƯỜI
Kính thưa các kiểu kính
thưa
Chân thành kính gửi, say
sưa kính mời
Kính thưa một tấn trò đời
Đầu xuôi đuôi lọt bao lời
kính thưa!
Kính thưa sớm nắng chiều
mưa
Kính thưa vết loét thơ chưa
thể liền
Con ông Đô, cháu ông Tiền
Đầu xanh đầu đỏ lạm quyền
kính thưa!
Sự đời đã biết hay chưa
Kính thưa nước mặn, kính
thưa đất phèn
Kính thưa nghèo khổ kinh
niên
Hạt gạo như thể nàng Tiên
tặng đời!
Kính thưa những giọt mồ hôi
Mọc lên nhà máy, tơi bời
vòng quay
Kính thưa thần phép đôi tay
Niềm tin đến bạc đầu này,
kính thưa!
Bao giờ cho tới ngày xưa
Và ngày nay nữa
Kính thưa con người!
VE SẦU
Nằm mà có ngủ nổi đau
Còn ra rả tiếng ve sầu ngày
xưa
Tiếng buồn xao động nắng
trưa
Mà da diết gió, mà thờ thẫn
cây
Kêu chi kêu đến hao gầy
Mấy lần lột vỏ, không thay
được hồn
Tuổi thơ đành đã không còn
Kêu chi tha thiết mỏi mòn
bấy nay
Bởi không uống hết niềm say
Nên ve treo xác trên cây,
mà sầu
Cuộc tình thơ mộng gì đâu
Chung quy vẫn thuở ban đầu
đấy thôi
Ta đi qua mấy phần đời
Tiếng ve còn hát chơi vơi
trong lòng.
LƯƠNG HỮU
Tên thật là Nguyễn Hữu
Lượng
Nhà giáo
Quê: TP Thái Bình
Sinh năm 1937
Hội viên Hội VHNT Thái Bình
XEM CHÈO MẸ ĐỐP
Chẳng lẽ em mong là mẹ Đốp
Kéo dân làng trở lại kiếp đi rao
Và dao thớt bưng mâm giải chiếu
Cho lũ quan vien vênh mặt cường hào.
Nhưng nếu được bốc mồm lý trưởng
Gói vào vạt váy gái đang xuân
Làm cứng họng những hàng râu khuếch khoác
Xin cho em làm mẹ Đốp một lần.
Ở những chốn lệ còn cao hơn luật
Cần nhiều tay mẹ Đốp mới xong thôi
Các cụ lý xưa nay thường đuối lý
Lý cũng thèm oản bụt táo chua rơi.
Chỉ là trò giỡn mặt nhau chơi
Mà làng nước xưa nay cũng thoáng
Được bắt khoán chính những thằng bắt khoán
Nổi trống chèo đảo lộn ngược mọi buồn vui.
XEM BẠN ĐÁNH CỜ
Tặng anh H.Đ
Dù chưa sạch nước cản
Cũng xem bạn cầm quân
Từng ô đời biến ảo
Mã kẹt nước giao chân
Cờ cao không gặp thế
Chịu bí một bên bàn
Thí xe hơn thí tốt
Khuyết sỹ cờ mau tàn
Dẫu tài như Đế Thích
Còn đau nước pháo lồng
Ở nơi cần trí lực
Người hiền thường long đong
Nào thôi bày ván khác
Xuất tướng thận trọng hơn
Dè chừng quân pháo gác
Hay đánh ngầm sau lưng
Ngồi xem tài cao thấp
Phục bạn nết khoan dung
Nhường đối phương một nước
Nụ cười cứ như không.
THÁI BÌNH
Thái Bình ở phía trăng lên
Củ khoai hạt lúa vốn hiền như không
Mênh mông biển, mênh mông đồng
Câu chèo như tự trong hồn trào ra
Nắng có táp, mưa có sa
Sông Trà sức vóc đã là bấy nhiêu
Chảy qua cái khó, cái nghèo
Cũng ra tới biển, cũng nhiều khát khao.
Người quê được cái nết chào
Cỗ đầy không hám, mâm cao không màng
Có chăng một miếng giữa làng
Đồng tiền bát gạo lẽ thường vậy thôi
Nôm na chuyện “cóc kiện trời”
Trời mư trời vẫn là người chí tôn
Quen rồi một nắng hai sương
Quê hương vạt muống chum tương vẫn là...
Tháng tám thương mến tháng ba
Qua cơn giáp hạt là qua mọi bề
Thái Bình kể vậy em nghe
Kẻo trăng lại ngại mây che phía này.
Quê xã Vũ Phúc, TP Thái Bình
Cử nhân SP Văn
Sinh 1973
Hội viên Hội VHNT Thái Bình
MUỐI DƯA
Tươi cái mất, héo cái còn
Tôi đem muối những nỗi buồn thành dưa
Tưởng vừa chớm đến độ chua
Lại ra vị đắng chẳng ngờ vì đâu?
Một thời mặn nhạt cho nhau
Xa xôi nào nghĩ nát màu lá xanh
Gỡ xong ngày tháng ...vô tình
Lòng ai chừng đã nổi thành váng chua
Hoa vàng nở giữa trời mưa
Gió đưa cây cải ngày xưa về trời
Thương thầm từng cọng rau tươi
Rưng rưng cái mất, chơi vơi cái còn.
GỬI NGƯỜI MỘT THUỞ
Thôi người cứ hạnh phúc đi
Ta chẳng thể níu người về nữa đâu
Tình yêu sóng cả sông sâu
Ta nâng niu những nỗi đau thật lòng
Ta mơ một khoảng trời hồng
Giờ giông bão, suy cho cùng tại ta
Ngỡ là ngon ngọt cỏ hoa
Trái tim gai nhọn đâm tà áo xanh
Ta ngồi đan lại mong manh
Buồn đau rồi cũng sẽ thành tình yêu
Trả người ham hố cao siêu
Ta về nhận lại những điều qunh ta
Tiếng lành gần, tiếng dữ xa
Sẽ day dứt lắm nếu ta phụ người
Giờ ta thanh thản nói cười
Và ta nhường để cho người phụ ta.
Tình yêu là giấc mơ xa
Cầu cho người mãi là hoa của đời
Còn tan men phía chân trời
Vẫn tin cỏ thắm, trăng ngời rạng hơn.
MỖI NGÀY
Vừa rực rỡ thế ban mai
Mới trưa đã nhuốm hình hài hoàng hôn
Đêm về bỗng thật mình hơn
Hoa tàn, trăng lặn, mây buồn, mưa dai.
Mỗi ngày lại có ngày mai
Thời gian cứ nhặt tàn phai góp vào
Lời cho không thật ngọt ngào
Nên câu nói dối lúc nào cũng xanh
Ngày nhiều tháng vẫn mỏng manh
Năm nhiều mà vẫn khó thành đời vui
Chợt gần gũi, đã xa xôi
Trái tim sống được bởi nuôi nỗi buồn.
PHAN ĐỨC CHÍNH
Quê : Hưng Hà, Thái Bình
Sinh 1945
Nhà báo
Hội viên Hội NV Việt Nam
KHÚC HÁT TẶNG SÔNG HỒNG
(Trích Trường ca Mưa trong đất)
I
Đồng bằng
Những ngôi nhà đất
Con trâu kéo xe trong trận
chống càn
Vua cày ruộng
Dân về lập ấp
Tiếng bé cười lẫn trong đám
cỏ hoang...
Đêm đồng bằng
Chật hẹp lo toan
Mẹ mong mãi mưa chưa đầy chum nước
Ngọn rau muống vương con
mắt ướt
Chum tương đầy
Mẹ quen để ngoài sân.
Các anh con đã nhiều lần
múc cạn
Mẹ vơi đi bao nỗi nhọc nhằn
Trăng đồng bằng
Từ đất mọc lên.
II
Trăng đồng bằng
từ đất mọc lên
Mai trời nắng
mẹ lo dậy sớm
Lo vá áo
Mẹ còn lo vá nón
Thương đồng bằng gồng gánh trên vai
Mẹ thương con
ngày rộng tháng dài
Tiếng gà gáy ơi sao sớm thế?
Tiếng con nước sinh con
cồn chớp bể
Tiếng chày khuya mẹ
giã gạo một mình
Sông Hồng ơi
sông chảy hết mình
Sông đỏ thắm như lòng người đỏ thắm
Mẹ gánh nước sông Hồng
con uống
Bao đắng cay bỗng hóa đậm đà
Bao đau thương chắt lọc hóa phù sa
Bao dữ dội biết dặn lòng độ lượng
Sông dào dạt mở lòng mình ra biển
Một dòng sông nuôi lớn cả hai bờ
Những ngày xưa
Thương nhớ của mẹ tôi
Mẹ sinh con lẫn trong hai triệu người chết đói
Những cây số người
Chết dần
Chết mỏi
Cột cây số nào mẹ đã sinh con.
Ai bò ra
Từ những đống xương
Ai ngã xuống không manh chiếu đắp
Ai từng ngồi ru xác chết
Giữa mưa dày đổ xuống bóng đêm?
Cho dù ai
Hay nhớ
Hay quên
Trong người sống có một người đã khuất.
Người hành khất có gì để mất
Chiếc bị tay kia
Và chiếc gậy tay này!
Mẹ khẽ hát
Chừng như sóng hát
Câu hát nhòa nước mắt
Phù sa
Chẳng ai nhuộm được sông Hồng đỏ mãi
Mẹ Âu Cơ rồi cũng phải già
Sông chảy máu ra từ ruột đất
Một nửa đầy
Bồi đắp nửa kia.
III
Ôi đêm nay gió mùa đông bắc
Lòng mẹ heo may tới rải đồng
Mẹ mong cơn mưa chỉ mình mẹ ướt
Mẹ gửi bầu trời tấm áo bông
Thương các anh
Mẹ thắp nén nhang
Mẹ quá cố
Ai thắp hương cho mẹ
Lòng mẹ rỗng ở nơi gặp bể
Thương vỏ sò dưới đất ngủ quên
Bông lúa chín lại chín thêm lần nữa
Hạt gạo mẹ mơ có giống chiếc thuyền?
Trăng đồng bằng
Từ đất mọc lên.
ĐÕ TRỌNG KHƠI
Quê: Văn Cẩm, Hưng Hà, Thái
Bình
Sinh 1960
Hội viên Hội NV Việt Nam
CON CHIM THIÊNG VẪN BAY
Giọt nắng cuối trời rơi xuống cánh chim xa
Chim mang nắng đi
sắc trời tan lẫn
mỏng đến thế
nhẹ tênh đến thế
khung trời kia ơi.
Chất ấm nồng tan ở cuối trời
người chinh phụ ấy
tuổi đã ngoài năm mươi
ngót ba mươi năm rồi
nhìn chân trời
đêm đêm mơ màng ôm giọt nắng.
Bà hy vọng
vào con chim thiêng
không nỡ bỏ đường trời!
GỌI LÀNG
Đơn sơ một nếp quê hương
Con sông nho nhỏ, con đường tơ giăng
Mùa đi cây chẳng nói năng
Mà vườn ruộng vẫn tháng năm xanh đầy.
Ba trăm năm lẻ dựng xây
Tuổi làng gần tuổi làn mây cuối trời
Bạn bè ngày ấu thơ ơi
Thương làng thương lắm cái thời tre xanh.
Làng giờ khuất bóng tre xanh
Cây đa bến nước cũng thành ngày xưa
Nhớ ngây ngô, nhớ bơ vơ
Nhớ sao hương nắng sắc mưa năm nào
Bây giờ giá được ước ao
Ước cho trời thấp, đất cao bằng trời
Trai làng đùa trăng vàng trôi
Gái làng lấy áo hứng lời trăng thương.
Chiều nay ra đứng ven đường
Gọi làng, vọng nỗi cố hương xa vời
Tre xanh, hồn của bao đời
Chợt về xanh mát hồn tôi hồn làng.
CẦM THU
Trời đã thấp, đất đã cao
nắng đã mỏng, trăng đã hao sắc rồi
Kết mùa ngậm bóng hoa rơi
Mà theo hoa rụng về thời thơ sinh
Mà về thăm thẳm tâm linh
lặng nghe tĩnh vắng xóa hình dáng ta
Mà về hòa giữa dư ba
Trùng trùng sương lá mưa sa kín lòng
Thân một bến, tâm một dòng
một bàu nửa thực nửa không, thu bày
Năm đơm đã chín trái ngày
cầm thu chói rực bàn tay cội cành...
NGUYỄN LONG
Quê: Hiệp Hòa, Vũ Thư, Thái
Bình
Sinh1953
Nhà báo
Hội viên Hội VHNT Thái Bình
THƯỜNG DÂN
Đông thì chật, ít thì thưa
chẳng
bao giờ thấy dư thừa thường dân
quanh
năm chân đất đầu trần
tác tao
sau những vũ vần bão dông
Khi làm cây mác cây chông
khi
thành biển cả khi không là gì
thấp
cao đâu có hề chi
cỏ ngàn
năm vẫn xanh rì cỏ thôi
Ăn của đất, uống của trời
dốc
lòng cởi dạ cho người mình tin
ồn ào mà vãn lặng im
mặc ai
mua bán nổi chìm thiệt hơn
Chỉ mong ấm áo no cơm
chắt
chiu dàng dụm thảo thơm ngọt lành
hoà vào
tời đất mà xanh
vô tư
mấy kiếp mới thành thường dân
THÍM TÔI
Suốt
đời quần mảnh áo manh
thím
tôi lúc chết bỗng thành giầu sang
đám
ma rắc bạc rắc vàng
kiệu
son cờ gấm đưa ngang trời chiều.
Tấm
thân còm cõi liêu xiêu
mà
đi qua hết mọi điều khổ đau
còn
mong tới được kiếp sau
gặp
con người sống với nhau nhân từ.
Một
đời nửa thực nửa hư
buồn
như mảnh gió, lành như đất đồng
cằn
khô phúc lộc nhà chồng
trách
mình phận mỏng vun trồng chẳng nên.
Thím
tin có Phật, có Tiên
bao
nhiêu vận hạn ở hiền cũng qua
quanh
năm chỉ biết chợ nhà
bao
giờ chết sẽ đi xa như người.
Khổ
đau à, khổ đau ơi
cất
xong một gánh phận đời nhẹ tênh
cầu
vồng bảy sắc chênh vênh
mây
giăng chín nhịp, gập ghềnh thím qua.
KIẾP
LÀNG
Lẫn
vào gió, ẩn vào sương
dầm
mưa dãi nắng vất vương kiếp làng
buồn
như những sợi khói lam
theo
làn mây trắng bay ngang cánh đồng.
Kiếp
làng trĩu chiếc đòn cong
đời
con gánh tiếp lưng còng đời cha
bao
đời cây gạo có ma
những
khi làng đói đỏ hoa đầy trời.
Kiếp
làng có kiếp mẹ tôi
thắt
lưng xanh biếc một thời tuổi xuân
cha
đi chiến trận mấy lần
mẹ
tôi chờ héo cả vầng trăng thu.
Kiếp
làng từ thuở mịt mù
những
lời nguyền chứa hận thù, oan khiên
đất
làng dông bão liên miên
thuế
sưu, nhũng nhiễu đảo điên lòng người.
Đưa
nhau xuống bể lên trời
trả
ngàn năm vẫn chưa vơi kiếp làng.
ĐẶNG VĂN TOÀN
Quê: Đông Hầ, Đông Hưng, Thái Bình
Sinh 1953
Hội viên Hội VHNT Thái Bình
LÀNG TÔI
Làng tôi ở phía cánh đồng
bờ đê thoải xuống triền sông
miệt mài
nhọc nhằn hạt đỗ củ khoai
gió hun hút thổi gió ngoài
bãi hoang
Làng tôi ở phía mùa màng
buồng cau tháng tám treo
ngang tháng mười
lúa đồng hạt lép hạt rơi
hạt lăn về cót nuôi người nắng
mưa
Làng tôi ở phía ngày xưa
bóng đa đổ xuống bóng chùa
quạnh hiu
cổng chùa chiếc cánh xiêu
xiêu
chiếc then cài lỏng vào chiều
hương nhu
Làng tôi ở phía mùa thu
gió lay chuốt mỏng câu ru
xoan đào
cánh cò về trắng bờ ao
bông hoa súng tín in vào tuổi
thơ
Để rồi ở phía mộng mơ
những đêm náo nức ngóng chờ
trăng lên
gió như nghìn lượt sóng êm
làng vươn theo dáng con
thuyền ra khơi.
ĐÈN GIỜI
Quanh năm úp mặt xuống đất
đêm nay ngẩng mặt lên trời
đêm nay làng đốt đèn giời
trống khua rung chiều khói
biếc
Một chiếc hai chiếc ba chiếc
đèn bay đỏ như sao sa
nỗi niềm gió mây bát ngát
mặt người tươi như mặt hoa
Ngoài kia dòng sông đang chảy
lúa mùa nưng nức đang bông
làng như con thuyền đang chạy
nắng mưa khép vạt cánh đồng
Quên đi tháng ngày bận rộn
chuyện đời có lúc đầy vơi
đêm nay cả làng mơ mộng
ta thắp hồn lên với trời.
BÀI THƠ CHƯA THÀNH
Trường Sơn xa, Trường Sơn sâu
ta còn người bạn bấy lâu không
về
bạn hy sinh giữa trưa hè
dưới mênh mông nắng rừng le
tỏa tròn
Tháng ngày, đồng đội, đạn
bom
Lúc ra đi bạn hãy còn trang
thơ
nửa trang chữ đẩy chữ xô
nửa còn giấy trắng, bài thơ
chưa thành
Nỗi niềm sau cuộc chiến
tranh
mấy lần ta định nối vần lại
thôi
có khi cái chỗ không lời
lại là cái chỗ cuộc đời hiện
lên
Để nguyên, cứ để trống nguyên
Cho thơ lặng một khoảng yên
mát còn
Cho hôm qua chẳng phai mòn
Và Trường sơn mãi Trường sơn
giữa đời
Gian nan thơ cũng như người
Máu xương đi hết cuộc đời núi
sông.
VÕ BÁ CƯỜNG
Quê: Đông Hưng, Thái Bình
Sinh 1940
Hội viên Hội NV Việt Nam
CHỮ NGHĨA
Trang giấy mỏng chữ thánh hiền để lại
Dắt ta đi trong ý tứ lặng im
Chữ nghĩa một đời nhân từ hư tĩnh
Lời như bóng nhạn ngang trời
Chữ khẳng khái sông nào pha máu giặc
Chữ âm thầm chỉ biết hiến dâng thôi.
Chữ nghĩa nâu sồng nắng mưa cực nhọc
Chữ hiền lành như quả ngủ đầu cây
Chữ nối chữ như đất đai cầy lật
Chữ xa xăm u tịch vơi đầy.
Chữ nuôi dưỡng tâm hồn ta
lớn dậy
Thâm uyên gió thổi lòng sâu
Thương kẻ tật nguyền yêu người nhân hậu
Chữ khiêm nhường như đất mãi màu nâu.
Giấy mỏng ngàn đời chữ nghĩa nông sâu
Câu chữ trong ta nửa sương nửa gió
Soi vào chữ thiêng liêng mờ tỏ
Tàn tro bay hồn chữ gọi người.
TRỌNG KHÁNH
Quê: Thái Thụy, Thái Bình
Sinh năm 1`947, mất 2013
Hội viên Hội NV Việt Nam
MƯA BONG BÓNG
Trời mưa nổi bong bóng nước
Bà ngồi chóp chép nhai trầu
Một mình cháu chơi tam cúc
Mẹ giờ dạy học nơi đâu.
Trời mưa dày bong bóng nước
Ai ngồi đếm hạt mưa mau
Trường nghèo dột dần tới nóc
Thày trò cùng ướt như nhau.
Trời mưa chìm bong bóng nước
Biết rằng cơn mưa còn lâu
Anh đi mưa ướt đằng trước
Em về đẫm vạt áo sau.
Trời mưa tan bong bóng nước
Trước hiên loang đỏ bã trầu
Một mình cháu chơi tam cúc
Bà cười nhìn cháu rất lâu.
NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT
Quê: Hiệp Hòa, Vũ Thư, Thái
Bình
Sinh 1950
Hội viên Hội NV Việt Nam
CHUỘC YÊU
Phía dại khờ đến mãi đâu?
Mà đi tận bạc mái đầu chưa qua.
Ngớ ra người cũng như ta
Lơ ngơ đến vụng dại mà tin yêu.
Thôi thì khờ dại đã nhiều
Thì thôi đời một chữ yêu thôi đành.
Ví bằng về được tuổi xanh
Tôi mang bán cả kinh thành chuộc yêu.
NGUYỄN VĂN HUY
Quê: Kiến Xương, Thái Bình
Sinh 1979
Cử nhận SP Văn
Hội viên Hội VHNT Thái Bình
NHỚ QUÊ
Hẳn là cốm đã lên hương
Rơm vàng rải rác con đường thôn quê
Ta xa lâu lắm không về
Mẹ ta chân đất nón mê ngóng chờ.
Thảo nào trong những giấc mơ
Con đò ngày cũ hững hờ buông neo
Đâu đây tiếng vọng quê nghèo
Gọi về như tiếng khua chèo đêm đêm.
Hẳn là ngõ sẽ vui lên
Bởi ran ríu tiếng trẻ em nô đùa
Chợt thương giấc ngủ ngày mùa
Cứ thon thót sợ cơn mưa cuối trời.
Xa quê đã mấy năm rồi
Sông quê mấy bận lở bồi sang nhau.
Dường như bãi mía nương dâu
Chiều nay bàng bạc một mầu nhớ thương.
PHẠM CÔNG LIÊN
Quê: Quỳnh Phụ, Thái Bình
Sinh 1949, mất 2016
Thưng binh chống Mỹ
Hội viên Hội VHNT Thái Bình
LÀNG XE LĂN
Làng tôi ở một vùng châu thổ
Bên dòng sông xanh đất xanh trời
Mỗi mùa cánh đồng vàng lúa trổ
Mang ngọt ngào nuôi sống làng tôi.
Dân làng tôi là trai tứ xứ
Một thời yêu em Mận em Đào
Kẻ dân giã giấc mơ thường giản dị
Mái nhà yên ríu rít ra vào.
Dân làng tôi chẳng giống làng nào
Tất cả xe lăn, chẳng mấy người đi được
Một thằng mất thì cả làng cùng khóc
Tiễn bạn về... chầm chậm bánh xe lăn.
Dân làng tôi ít người lấy vợ
Bốn mùa lẻ loi vò võ bốn mùa
Ngày giỗ tết nhớ ông bà tiên tổ
Giường cá nhân ai nỡ cắm hương thờ.
Ở làng tôi toàn người có tuổi
Thời trẻ trai trải bốn phương trời
Làng thật hiếm một người cao tuổi
Cụ nhất làng mới ngoại năm mươi.
Dân làng tôi những người dễ tính
Cơm muối dưa đắp đổi qua ngày
Cười ra phết, còn nguyên chất lính
Mùa đông về kệ lá vàng bay.
Làng tôi ở một vùng châu thổ
Bên dòng
sông xanh đất xanh trời
Làng của tôi sẽ vào chuyện cổ
... Ngày xửa ngày xưa có một làng tôi...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét