ĐẾN
VỚI BÀI THƠ HAY
THÍM HAI VUI
thím buồn vui một mình
thím bảo những năm ấy
là những năm hoà bình
Có tin đồn chú chết
thím thầm cắn chặt môi
nuôi hai con ăn học
cấy cầy đến quắt người
Bỗng đột nhiên chú về
tung huân chương đầy chiếu
thím cười mà như mếu
nước mắt chẳng buồn lau
Rồi chẳng biết vì đâu
yên lành không chịu được
vợ con, chú đánh trước
xóm giềng chú đánh sau
Chớ dại mà can chú
chú nhất cả huyện rồi
giặc nào chú cũng thắng
có thua thua ông trời
Chỉ thương thím Hai Vui
mặt mũi luôn thâm tím
đến bây giờ chiến tranh
mới thật đến với thím
Chú đòi phải ly dị
mỗi con về một nơi
thím hát như kẻ dại
miệng mếu lại thành cười
Nghe đâu thím lên tỉnh
rửa bát cho người ta
thấy ai quen cũng lánh
những mặt phấn quần hoa
TRẦN NHUẬN MINH
Bồ Hòn,
tháng 10/1988
LỜI BÌNH CỦA NGUYỄN LONG
Bài thơ này tôi đã đọc nhiều lần, không
hiểu sao cứ mỗi lần đọc lại thấy lòng rưng rưng, xa xót buồn thương cho số phận
của người phụ nữ nhà quê chịu khó chịu thương vừa chung thuỷ với chồng, vừa yêu
thương con cái hết mực như thím Hai Vui.
Một người phụ nữ đi qua cuộc chiến
tranh, bao nhiêu năm vò võ nuôi con, vò võ đợi chồng, đến ngày hoà bình trở lại,
non sông thống nhất, gia đình được đoàn tụ, người chồng trở về trong chói lói hào
quang, lại là lúc cuộc sống mới bắt đầu bất hạnh, địa ngục của đời mới bắt đầu
mở ra. Một sự thật tưởng như không bao giờ có và không thể tin được... Sự hấp dẫn
của bài thơ là ngay khổ thơ đầu tác giả đã bật ra cái tứ thơ ấy: Những năm chú ra trận/ thím buồn vui một
mình/ thím bảo những năm ấy/ là những năm hoà bình. Đọc bài thơ trên, tôi
thường nhớ tới cái thời đã hoà bình bao cấp, cả xã hội chìm trong đói kém,. Nhiều
gia đình hàng tháng trời không nhìn thấy hạt cơm, có người đói khổ quá phải nấu
cháo thuốc sâu để cả nhà ăn chết đi cho hết cảnh khổ lay lắt. Ngày ấy rất nhiều
người ước thời chiến tranh trở lại để còn có bát cơm mà ăn. Và tôi chợt nhớ đến
những câu thơ trong bài Nghe tiếng cuốc
kêu của nhà thơ Hữu Thỉnh: Đợi anh/
chỉ mong anh về/ áo rách cũng thơm/ chiếc chạn nhỏ với vài đôi đũa mộc/ cứ tưởng
sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc/ chúng ta đã vò võ đợi nhau... nhưng
không phải em ơi/ cuốc kêu không phải thế...
Và những người lính từ chiến trận trở
về mang theo những chiến công hiểm hách,
người anh hùng ấy phải theo lẽ phải được mọi người tôn vinh, kính nể và trân trọng.
Nhưng hình như vẫn là tiếng cuốc kêu: Nhưng
không phải, trời ơi, không phải thế!... Cũng mỗi lần nghĩ về bài thơ, tôi lại
nhớ đến truyện ngắn lịch sử Dạ đàm của nhà văn Hoàng Quốc Hải, đã in trên báo Văn
nghệ, truyện đại ý: Bình xong giặc Thát lần thứ ba, Hoàng đế Trần Nhân Tông mới
ngoài 30 tuổi đã nhường ngai vàng cho con để vào Yên Tử tu thiền. Trong một cuộc
dạ đàm trước ngày vua từ ngôi báu, một quần thần mến mộ của vua hỏi người: Sao
giang sơn, xã tắc vừa thanh bình, còn bao nhiêu việc lớn đang cần tới người mà
bệ hạ lại bỏ triều đình để tìm đến cửa thiền. Nhà vua bảo: Đất nước tuy hết giặc
giã, nhưng trải qua ba lần chiến tranh, con người đã quen với chém giết, đã nhờn
với cái ác, nhìn thấy máu đổ giống như nước
lã chảy. Nếu ta không tìm đường tu để giáo hoá tâm thiện cho dân tình thì xã tắc
mong gì được yên lành, bền vững...
Là bậc thánh nhân nên Trần Nhân Tông đã
nhìn thấy những mần độc sau các đài hoa chiến thắng, những điều xấu xa nảy nở
trong sự kiêu hùng của con người. Có lẽ thời nào, cuộc chiến nào cũng vậy kể cả
đối với bên thắng cuộc và được coi là chính nghĩa, bao giờ nó cũng để lại những
di chứng đau lòng và người dân là lớp người chịu thiệt thòi, mất mát nhiều nhất.
Đó là nỗi buồn đau lớn nhất của chiến tranh. Bài thơ Thím Hai Vui của nhà thơ
Trần Nhuận Minh là một bài thơ hay bởi nó là một nỗi buồn chiến tranh lớn. Bao nhiêu lần đọc bài thơ, đọc xong chỉ
thấy nỗi buồn đọng lại.
NGUYỄN LONG
(Tạp chí Văn
nghệ Thái Bình)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét