Người Việt Nam vốn vị tình nên lục bát
cũng là một thể thơ vị tình. Những điệu dân ca Bắc bộ, Quan Họ, những làn hát
chèo như giao duyên, cò lả, mời trầu.. đã tựa hẳn lòng vào cái nền thơ sáu tám.
Ông cha ta tự ngàn xưa đã hát Xẩm, hát rong bằng lục bát để khóc cười thái thế
nhân tình.
Ngỡ rằng đã có một dòng sông Ca Dao
mênh mông, sâu thẳm, một lâu đài Truyện Kiều tráng lệ sừng sững thì mảnh đất cổ
lục bát không còn chỗ cho hậu thế đặt chân. Nhưng cái thể thơ hai câu ngắn dài
với những niêm luật trắc bằng quanh đi quẩn lại như đèn kéo quân ấy chưa bao
giờ biết dừng chân và hết làm mê hoặc con người. Người đời sau vẫn thi nhau
khám phá, tìm đường làm cuộc chạy tiếp sức tiền nhân. Và con đường lục bát mới
mẻ vẫn cứ mở ra và hình như còn chạy dài đến vô cùng vô tận. Một Tản Đà đi tiên
phong cho nền thơ Mới bằng "Thề non
nước", một Nguyễn Bính đã trở thành thi sỹ chân quê. Rồi đến Huy Cận,
Tố Hữu, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn… mỗi thời, mỗi chặng đường đều có những tên
tuổi góp phần làm sáng danh thêm cho thể thơ cổ truyền dân tộc.
Vừa như cũ mà vẫn mới, vừa như quen mà
vẫn lạ bởi lục bát là thể thơ dễ làm nhưng rất khó hay. Những câu thơ mượt mà
dễ đi vào lòng người nhưng không dễ làm chủ được nó. Tự nhiên, dễ dãi hay đơn
giản một chút thì lục bát thành bài vè thô thiển. Nhiều chữ, suy ngẫm khôn quá
lại dễ sa vào trò chơi trí uẩn, bài thơ dễ thành một vốc chữ thơ uyên bác bị
khuôn vào niêm luật trắc bằng. Và hình như nó cũng giống như một cô gái nhà quê
xinh đẹp không ưa lối phấn son tô điểm cầu kỳ. Càng dụng công bao nhiêu thơ càng
thiếu tự tin và diện tướng người thơ càng dễ trơ lộ bấy nhiêu. Thơ lục bát cũng
không dễ viết bằng những chuyến đi thực tế như nhiều thể loại văn chương khác,
nó đòi hỏi thực tế tâm hồn người viết phải qua nhiều trải nghiệm cuộc đời mới
mong có được thơ hay. Nguyễn Du sau mấy chục năm "cát bụi" mới có
câu: "Phận bèo bao quản mưa sa/ lênh
đênh đâu nữa cũng là lênh đênh". Nguyễn Bính đã từng mòn chân tứ xứ
mới viết: "Giang hồ còn lại mình
tôi/ quê người đắng khói, quê người cay men"…
Dẫu là thể thơ cổ, câu chữ bị bó trong
khuôn khổ, niêm luật nhưng không phải lục bát chỉ hợp với sự kể lể, dãi bày xưa
cũ. Hay chỉ thể hiện được những tình cảm buồn man mát, vui dặt dìu với cái
giọng điệu ới a, dàn trải của cánh đồng làng quê, sông nước mà nó có đầy đủ khả
năng thể hiện, diễn đạt mọi vấn đề của cuộc sống đặt ra. Trong ca dao hầu như
không thiếu một chủ đề nào của tự nhiên, xã hội và đời sống con người. Chỉ
riêng hai câu: "Anh như tràng kỷ nhà
quan/ em như chiếc nón mê tàm ngày mưa" mà nói được rất sâu, rất hay
hai thân phận, hai phẩm giá trái ngược nhau. Truyện Kiều có đủ các loại người
giầu nghèo, sang hèn, tốt xấu, đủ cảnh ngộ vui buồn, sướng khổ, rủi may… mà
Nguyễn Du viết không chữ nào không lung linh châu ngọc, không câu nào không
chớp lóa sương nghiêm. Đến lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ, nhà
thơ Tố Hữu chuyển thành lục bát mà vẫn mang khí thế của lời hịch: "Hỡi quóc dân, hỡi đồng bào/ có gươm có
súng có dao hãy dùng"…
Mỗi thời cuộc khác nhau, lối nói và
cách nghĩ của con người khác nhau nên thơ nói chung, lục bát nói riêng cũng
không bao giờ giống nhau. Vẫn những vui buồn, yêu ghét, giận hờn, thương nhớ… nhưng
ngày nay muốn trải lòng bằng thể thơ cũ phải có sự cứu cánh của ngôn từ mới,
thẩm mỹ mới. Bởi những tình cảm muôn thuở, những hình ảnh mẫu, và nhiều câu chữ
đắc địa đã mài mòn trong ca dao và thơ phú của tiền nhân. Và cũng bởi thời đại
bây giờ là thời của tri thức, công nghệ mọi thứ đều hướng tới cái siêu: "siêu thịt, siêu lúa, siêu sao…" nên
lục bát cũng phải "hiện đại hóa" theo. Thơ phải bó câu bó chữ, kiệm
lời, ép tứ lại để tạo được sức vang lớn. Nhưng ngôn ngữ phải tươi mới, sống
động, cựa quậy trong thơ mới mong đi vào lòng bạn đọc và kéo dài được tuổi thọ.
Nói vậy, nhưng bay vào cuộc sống hiện đại, với thị trường ồn ào, náo động ngày
nay bằng thể thơ cổ không phải dễ. Cái áo dài thướt tha với trắc bằng, sáu tám
cốt dáng kiêu sa truyền thống lúc nào cũng như thách đố những ai muốn hiện đại
nó. Nó chỉ đi cùng ai làm cho nó đẹp
hoàn thiện. Đó là cái đẹp vừa giản dị, vừa tự nhiên như muôn thuở mà mọi sự tìm
tòi của mọi loại hình nghệ thuật đều hướng tới.
* * *
Đã ngàn đời làm bạn với con trâu, cái
cày, cánh cò, hạt thóc. Đã quen quanh quẩn với bờ tre, giếng nước với chiếu
chèo sân đình. Quen véo von dàn trải với hò vè sông nước. Và đã sống lê la với
hát sẩm, hát rong ở đầu đường, bãi chợ, vỉa hè… Lục bát có một diễm phúc lớn
được Nguyễn Du làm cao sang lên bởi Truyện Kiều và thi sỹ tài danh các đời vẫn
nối tiếp nhau đôn nó cao lên ngang tầm các thời đại để nó không bị lút chìm đi
trong cái cũ mòn. Nhưng liệu thể thơ cổ truyền đặc trưng Việt Nam có trở lên
cao sâu, xa rộng, có vượt được đại dương đến với năm châu bốn bể như Đường Thi
của Trung Quốc hay như thơ Hai Ku của Nhật Bản hay không?
Đó vẫn còn là một câu hỏi rất lớn của
thơ lục bát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét