Bút ký của NGUYỄN LONG
Năm nay làng chài Cao Bình dự định kỷ
niệm lần 92 năm sống ở đất Hồng Tiến, Kiến Xương. Đấy là nghe truyền khẩu mấy
đời chứ thực chất chẳng ai biết ngày tháng năm nào các cụ tổ vạn chài về đây
cắm sào đậu lại thành làng. Vì cả làng từ xưa không ai biết chữ nên không một
nhà nào có gia phả hay giấy tờ ghi lại sử
làng. Gọi là làng chứ đến nay mới chỉ có vài nóc nhà lèo tèo nằm sát con
đê chắn sóng sát sông Hồng gần như biệt lập với xã hội bên ngoài. Đấy cũng là
thành quả của mấy cuộc vận động làng chài an cư lạc nghiệp của các cấp chính
quyền huyện xã từ mấy chục năm nay. Trước đây mảnh đất hờ của làng chỉ lênh đênh
trên cái bến nước thôn Cao Bình mà gần một trăm năm nay người làng chài truyền
đời nhau gọi đấy là quê. Cả làng có hơn 100 hộ giáo dân từ ngày xửa ngày xưa
chỉ sống bằng nghề thuần sông nước. Cái làng bến nước ấy thực chất chỉ là nơi
dân làng đăng ký hộ khẩu và một năm đôi ba lần các nhà tụ lại với nhau vào
những kỳ lễ Giáng sinh, Phục sinh, lễ Quan thầy là những ngày đạo trọng, còn
những ngày thường bến sông vắng ngơ vắng ngắt. Dân làng chài phiêu dạt tứ xứ
làm ăn. Thuyền của làng Cao Bình hầu hết là thuyền nhỏ nên không nhà nào có khả
năng đánh bắt xa bờ. suốt đời chỉ mon men ở các cửa sông. Có đi xa lắm cũng chỉ quang quẩn ở các vùng ven bờ từ
Thanh Hoá đổ ra đến Quảng Ninh, Hải Phòng. Bó bện với sông nước bao đời nhưng
không mấy hộ của làng thoát khỏi cảnh nghèo khó. Chẳng ai dám nghĩ đến chuyện
mua đất làm nhà để có nơi đi về khi trời dông biển động hay nghỉ ngơi lúc tuổi
già không còn cầm nổi mái chèo, tay lưới. Cuộc sống lênh đênh sông nước, con
thuyền là nhà, cắm sào đậu lại nơi đâu là quê không biết bao nhiêu cơ cực. Anh
Hoàng Văn Hải hiện là trưởng thôn cả nhà đã lên bờ được mươi năm nay sinh ra
trong một gia đình đã mấy đời chài lưới cho biết: Con thuyền chỉ rộng năm bẩy
mét vuông mà nhiều nhà cả ba thế hệ hơn chục người chen chúc nhau sinh sống
chưa kể đến có khi còn nuôi cả chó mèo và lợn gà nữa. Với cánh đàn ông cuộc
sống trên thuyền dù vất vả, bí bích đến đâu cũng chịu đựng được. Nhưng với đàn
bà, trẻ em thì trăm nỗi khổ cực. Bản thân anh cũng như nhiều người làng sinh ra
trên biển. Khi mẹ anh sinh anh ở ngoài biển Hải Phòng, cha mới vội đưa vào bờ
nơi gần nhất nhờ bà con địa phương giúp đỡ. Ba ngày sau khi thấy mẹ tròn con
vuông cả nhà anh lại xuống thuyền ra khơi. Có những trường hợp đau đẻ gặp lúc
thuyền đang ở xa không kịp cập bờ thì người trên thuyền phải tự đẻ, tự đỡ. Trẻ
con từ khi sinh ra đã bị "nhốt" trên thuyền, nhưng thương tâm hơn là
không mấy năm làng chài không có một vài đứa trẻ bị nước cuốn đi. Có gia đình
như nhà anh Nguyễn Văn Để bốn năm liền có hai đứa con bị chết đuối. Cuộc sóng
lênh đênh sông nước cuốn làng chài vào cái vòng luẩn quẩn nghèo khó, đông con
và đặc biệt là thất học từ đời nọ đến đời kia.
Trước những năm 70 thế kỷ trước làng
Cao Bình được coi là một địa chỉ "điểm trắng" về dân trí. Hầu như cả
làng mù chữ và không có người hiểu biết về các chủ trương chế độ chính sách của
Đảng và nhà nước. Thời ấy các cấp giáo dục của địa phương cũng đã có chủ trương
xoá mù cho làng chài. Một vài lớp học "chân sóng" được tổ chức, một
số giáo viên, trong đó tiêu biểu là thày giáo Chương xuống tận các thuyền để
dạy chữ cho dân. Nhưng một số người làng chài mới đọc thông viết thạo thì phong
trào lại lắng xuống. Những con chữ chưa bám vào được hồn người lại bị sóng cuốn
chìm xuống sông xuống biển, làng lại tái mù. Tới đầu thập kỷ những năm 90 nhận
thấy nguyên nhân sâu xa thất học, nghèo đói, và sinh con vô tội vạ của làng
chài là do dân không có một điểm định cư cố định. Không an cư thì không thể lạc
nghiệp. Các cấp chính quyền huyện xã đã có kế hoạch vận động và tổ chức định cư
cho làng. Khu đất một số người làng đang ở hiện nay được cắt dành chia cho cho
hơn 100 hộ của làng làm nhà ở. Lớp học tình thương, nhà văn hoá làng được dựng
lên bằng tiền trợ cấp. Nhưng sau ít ngày nhận đất, chỉ có hơn 30 chục hộ quyết
tâm trụ lại trên bờ. Số còn lại hoặc là bán đất đi hoặc là thế chấp đất để vay
tiền ngân hàng rồi cả nhà lại kéo nhau xuống thuyền trở lại cuộc sống lênh đênh
sông nước. Ngay những hộ đã định cư, nhiều gia đình cũng chỉ để con cái ở lại
nhà đi học còn bố mẹ vẫn phải kiếm ăn bằng nghề chài lưới. Bởi cả gia tài mấy
đời chỉ có một con thuyền nhỏ, có khi đã cũ nát, được cấp đất cũng là một sự ưu
đãi lớn đối với người dân nhưng không có tiền làm nhà, không có ruộng, không có
vốn và nhất là không có kinh nghiệm làm ăn, bám vào mảnh đất ven sông thì cả
nhà lấy gì mà sống. Số ít trẻ con đựợc may mắn lên bờ nhưng vì nhà nghèo hoặc
bố mẹ quanh năm đi vắng nên việc học tập
cũng gặp chăng hay chớ. Lớp học cứ teo tóp dần và nhà văn hoá cũng chẳng mấy
khi có người hội họp.
Trong số bẩy tám chục hộ vẫn lênh đênh
sông nước, có khoảng ba chục chiếc thuyền với gần 120 nhân khẩu của làng Cao
Bình tụ lại với nhau thành một làng chài nhỏ ở cửa sông Hồng nhìn xa giống như
một dấu chấm nằm sát chân Cồn Vành. Những ngày biển động gác mái chèo, những con
thuyền nhỏ bé neo buộc lại với nhau lắc lư trong sóng gió bấp bênh như cuộc
sống của những con người chài lưới. Sau nhiều năm tiếp xúc và trực tiếp quản lý
những hộ thuyền làm ăn ở vùng ven đảo. Thương người dân làng chài mà nhất là
các em ở độ tuổi đi học không biết chữ, đầu năm 2007 cán bộ chiến sỹ đồn biên
phòng 72 thuộc Bộ chỉ huy biên phòng Thái Bình chủ động lập đề án xoá mù cho
dân. Đề án mang ý nghĩa văn hoá và nhân văn sâu sắc nên vừa đưa ra được cấp
trên hết sức khen ngợi. Các cấp chính quyền địa phương và phòng giáo dục huyện
Kiến Xương nhiệt tình cùng kết hợp thực hiện. Trường tiểu học xã Hồng Tiến cử
thày giáo Trần Thanh Phúc ra trực tiếp ra nằm ở đảo dạy học cho dân. UBND huyện
Kiến Xương cử người mang các trang bị đồ dùng và sách vở ra cho lớp học. Riêng
đồn biên phòng cử trung uý Đào Đình Luyện, cán bộ vận động quần chúng làm cán
bộ quản lý lớp học và đồng chí Vũ Đình Văn, Y sĩ trạm Cồn Vành làm giáo viên
trợ giảng. Phương án nghe rất hay và sự chuẩn bị hết sức chu đáo như vậy nhưng
khi bắt tay vào việc gặp không ít trở ngại. Khi được nghe phổ biến chủ
trương mở lớp học làng chài, nhiều hộ đã
giẫy nảy lên phản đối. Vì đa số những người cần học lại là lao động chính, nếu
bỏ đi biển vài ngày thì cả nhà lấy gì mà ăn. Nhiều người còn phản đối thẳng
thừng: Tưởng bộ đội tổ chức làm điều gì
mang lại lợi ích vật chất cho dân chứ cho đi học thì chỉ mất thời gian mà chẳng
lợi lộc gì. Nhiều nhà ba đời chẳng học hành mà vẫn chài lưới giỏi đó thôi, đã
có ai chết vì mù chữ đâu. Còn đa số đám
đàn ông cũng không muốn vợ mình sau giờ chài lưới bỏ việc cơm nước ở nhà để đi
học.. Sau một thời gian tuyên truyền vận động, nhiều lần trạm Biên phòng phải
kết hợp vừa tổ chức khám bệnh cho dân vừa giải thích lôi kéo dân đến lớp. Nhưng
thời gian đầu chỉ lẻ tẻ một ít người tham gia. Không nản lòng, sau một thời
gian đi sát dân các chiến sỹ biên phòng vừa kiên trì thuyết phục vừa nghiên cứu tổ chức lớp học
cho phù hợp với công việc của làng nên số người tự nguyện đến lớp ngày một đông
thêm. Cuối tháng 11. 2007 đã có 80 người ở đủ mọi lứa tuổi đăng ký học tập.
Lịch học của xóm chài cũng chẳng giống nơi nào. Những ngày trời yên biển lặng
thuyền bè ra khơi lớp học đóng cửa. Chỉ những khi trời dông bể động học sinh
mới lục tục kéo nhau đến lớp. Do học viên nhiều độ tuổi khác nhau nên sau khi
khai giảng ít ngày lớp học phải chia thành hai nhóm. Chiếc bảng đen cũng được
phân làm hai. Nhóm những người nhận thức nhanh hầu hết là trẻ em và những người
còn trẻ học những bài mới ở nửa bảng. Nhóm các bà các mẹ nhớ mặt chữ chậm hơn phải
ôn đi ôn lại bài cũ nửa bảng kia. Vì cảnh neo người và đông con nên hầu hết các
bà các mẹ phải bế cả con cả cháu nhỏ đi học. Cảnh lớp học giống như những cuộc
họp xóm, có chị vừa viết bài vừa cho con bú, có tiếng trẻ con khóc đòi đi đái
đi ỉa. Con chữ ở nơi chân sóng cũng dễ tính nhập vào được mọi cảnh sống, mọi
lớp người. Với lớp học xoá mù bình thường chỉ cần ba tháng. Nhưng lớp học xóm
chài cứ gián đoạn theo thời tiết nên phải kéo tới gần mọt năm mới xong. Đầu năm
2008 kết thúc lớp học, đại diện Sở Giáo dục Thái Bình và phòng Giáo dục Kiến
Xương đã xuống tận nơi dự kiểm tra và cấp bằng chứng chỉ cho học viên. Có gia
đình như nhà anh Ngọc cả hai vợ chồng và bốn con cùng theo học một khoá. Chị
Nguyễn Thị Khuyên ngoài bốn mươi tuổi, nhà lại neo người làm nhưng không bỏ một
buổi học nào. Chị bảo ngày xưa không có điều kiện, chứ bây giờ lớp mở ở tận nơi
chân sóng nên phải tranh thủ học chứ không biết chữ khổ lắm. Năm trước chị ốm
phải lên nằm bệnh viện, bác sỹ đưa cho cái giấy bảo đi xét nghiệm nhưng chữ nghĩa
không biết mà nói ra thì ngượng. Phải đợi nửa ngày đứa cháu vào dẫn đi mới
biết. Hay như chị Tốt ngoài 50 tuổi bây giờ mới biết được mặt chữ. Hôm đoàn nhà
báo chúng tôi xuống thăm, hỏi chị sinh năm nào. Chị ngượng ngùng bảo cả nhà chị
từ truớc không biết chữ không làm giấy khai sinh nên không biết, chỉ nghe các
cụ nói đã ngoài năm mươi.
Con chữ đã tới được làng chài. Tuy còn
rất khiêm tốn nhưng niềm vui đã ánh lên và cái ánh sáng văn hoá đã le lói ở
những con thuyền xưa nay vẫn tăm tối. Có lần tôi hỏi một đồng chí cán bộ ở
phòng Giáo dục để xoá mù cho mọt người dân làng chài phải tốn bao nhiêu tiền.
Anh bảo không ai tính được cụ thể. Ngoài những kinh phí được cấp trên giấy tờ,
còn bao nhiêu công lênh của các cấp và những người tham gia thực hiện nữa. Chỉ
biết mỗi con chữ đến được những con thuyền quanh năm lênh đênh trên sông biển
cũng phải qua bao nhiêu nổi chìm sóng gió. Song qua bao nhiêu năm nhìn lại việc
xoá mù cho dân cũng mới chỉ là giải pháp tình thế. Nếu người dân và nhất là trẻ
em không tiếp tục được học lên thì chỉ sau vài năm sống ở nơi mịt mờ sông nước
chẳng dùng đến sách vở, tri thức mọi người sẽ lại tái mù. Chỉ khi nào làng chài
thực sự định cư, mọi hộ gia đình đều có nhà ở thì mới có thể nâng cao dân trí, nâng cao đời
sống cho dân và trẻ em mới được đi học đến nơi đến chốn.
Cái mục tiêu xoá mù và nâng cao dân
trí cho làng chài Cao Bình vẫn như là món nợ đeo đẳng các cấp chíng quyền và
các tổ chức giáo dục địa phương tới đầu thế kỷ 21. Từ bài học các đợt vận động
làng chài định cư trước đây, đầu năm 2009 vừa qua huyện Kiến Xương đã lập dự án
đưa tất cả những hộ dân Cao Bình còn lênh đênh trên thuyền về sống trên bờ.
Đồng chí bí thư huyện uỷ Đàm Văn Vượng, một cán bộ trẻ đã từng làm giám đốc
Ngân hàng Nhà nước tỉnh trực tiếp đứng ra chỉ đạo. Dự án đã được Tỉnh phê
duyệt, tổng chi phí hơn một tỷ đòng với chủ đầu tư là sở Nông nghiệp PTNT và
đơn vị trực tiếp thi công là Chi cục phát triển Nông nghiệp NT. Với tinh thần
có tính chiến lược của dự án như tổ chức làm nhà ở cho dân, xây dựng điện, đường,
trường, trạm cho làng... Rồi thành lập một tổ hợp đánh cá chuyên nghiệp cho
những người còn sức ra khơi, đào tạo nghề và lập tổ hợp làm nghề thủ công cho
những người khác còn độ tuổi lao động... Và điều quan trọng hơn là 100% trẻ em
của làng sẽ được sống trên bờ và được đến trường bình thường như mọi trẻ em các
làng khác. Mong điều mơ ước và hy vọng của trẻ thơ và của mọi người dân làng
chài sớm trở thành sự thực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét