NGUYỄN
LONG
Tôi cũng đã đi nhiều nơi và đọc được
nhiều sách vở các loại. Nhưng chỉ đến tuổi tri thiên mệnh, về công tác và sinh
sống ở tỉnh nhà, đọc được cuốn Nhận diện văn hoá làng của nhà nghiên cứu dân gian Nguyễn Thanh,
nguyên là giám đốc Sở Văn hoá Thái Bình, tôi mới biết cái làng An Để nghèo khó
của tôi từ thuở xa xưa đã từng sinh ra những vương hầu khanh tướng, là vùng đất
cổ văn hiến của vùng châu thổ sông Hồng. Năm 2004 tôi đã viết bài Làng An Để giới thiệu trên mục Những làng Việt Nam nổi
tiếng của báo Văn nghệ. Một người làng là ông Đào Thanh Cảnh, lúc đó làm trưởng
phòng ở Sở Giáo dục tỉnh gặp tôi bảo: Anh mới đọc bài chú viết trên báo, thì ra
lịch sử làng mình cũng rạng rỡ đấy nhỉ. Hoá ra ông cũng như tôi và nhiều người
khác, cả đời sống ở làng mà không biết về làng.
Nhân dịp năm ấy làng vừa mới dựng được
cái hội trường mới nhờ bán đất mặt đường ở ngã tư An Để nên được trên trích lại
cho 60 triệu. Tôi mua mấy tờ báo có đăng bài trên đem về uỷ ban tặng cho máy
cán bộ xã. Tôi còn gặp trực tiếp trưởng thôn, bảo ông cho trương bài báo lên
hội trường thôn để mọi người đọc và biết. Nhưng sau đó tôi về quê mấy lần không
thấy tờ báo đâu cả và cũng chẳng ai nhắc tới nữa. Và tôi tin rằng tới hôm nay
cũng chẳng mấy ông cán bộ ở xã, ở huyện quan tâm tới lịch sử làng An Để chứ người
dân làng lại càng ít người biết. Do vậy tôi đưa bài viết trên lên đây để ai cần
thì tìm đọc.
* * *
Làng An Để cổ xưa thuộc Châu Hoàng, phủ
Kiến Xương, nay là phần đất hai xã Hiệp Hoà và Xuân Hoà, huyên Vũ Thư. Qua nhiều
đời đã thay đổi các tên gọi khác nhau như Mần Để, Ba Đậu... Hiện nay thôn An Để,
xã Hiệp Hoà là trung tâm của làng An Để xa xưa. Thần tích do Đông Các học sỹ
Nguyễn Bính soạn dưói triều Hồng Đức (1470 – 1489) chép rằng: Thời nhà Lương
cai quản nước ta, vùng Thái Bình có Lý Bí nổi dậy chống giặc. Tương truyền ông
sinh ra ở Long Hưng, khi về quê tụ nghĩa, một ngày đi qua Tây Để trang thấy thế
đất “long hổ hoàn bão”, sơn thuỷ hữu tình, có sông vòng uốn khúc, phong tục thuần
hậu, nhân dân no đủ, ông tức cảnh đọc bốn câu thơ: Thành thị lâu đài giai bảo ngọc/ Giang sơn hoa thảo thống đan thanh/ Dư
khí trung thành tuy tiểu mạch/ Mặ ư chân khả khiến cung thành. Dịch nghĩa là:
Thành thị lâu đài sinh tựa ngọc/ núi sông
hoa cỏ ngát mầu xanh/ Thừa khí trung thành tuy đất hẹp/ Hẳn yên đắp luỹ dựng
cung thành.
Và quyết định cắm trại lấy làm nơi lập đồn
doanh đầu tiên.
Tây Để trang cũng chính là quê vợ ông, bà
Đỗ Thị Khương, người đã bó bện với Lý Bí từ trước khi dấy nghiệp. Bà là con ông
Đỗ Công Uẩn, một viên quan ở đất Châu Hoàng. Từ nhỏ bà nổi tiếng thông minh,
xinh đẹp. Sau khi cùng vợ xây xong luỹ thành Tây Để, Lý Bí giao cho vợ cai quản,
điều hành chính sự còn ông tiếp tục đi mộ quân mở rộng lực lượng. Khi Lý Bí xây
dựng được đại quân ở vùng ven biển thì bà Khương đã cùng các tướng lĩnh xây dựng
được chín đồn tiền tiêu chạy từ ngã ba Tuần Vường dọc sông Trà Lý tới vùng Sa Cát
(thị xã Thái Bình ngày nay) . Năm 542 Lý Bí xuống lệnh toàn bộ tướng sỹ về An Để
hội quân. Tây Để trang ngày ấy cờ suý rợp trời, người đi như nước chảy. Rồi đại
quân dốc đánh Kinh thành Long Biên đuổi giặc Lương ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm
544 Lý Bí lên ngôi vua xưng là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, niên hiệu
Thiên Đức, mở ra thời kỳ thái bình tự trị đầu tiên ở nước ta, chấm dứt hơn bảy
trăm năm Bắc thuộc. Đồng thời phong Đỗ Thị Khương là Linh Nhân Hoàng hậu. Bà là
vị Hoàng phi đầu tiên của nước Nam
ta.
Về sau tại nơi đồn trang này, được dựng lên
ngôi miếu thờ tiền Lý Nam Đế và Linh Nhân Hoàng hậu, lấy tên Vạn Xuân đặt cho tên
miếu để ghi nhớ công ơn của vợ chồng ông. Thời Lê Chính Hoà (1680 – 1705) miếu
Vạn Xuân được xây dựng lại khang trang. Đây là một công trình hoàn hảo như một
bảo tàng kiến trúc cổ thời Lê phong phú, rực rỡ vào bậc nhất nhì trong kho tàng
văn hoá nghệ thuật kiến trúc nước ta, đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch
sử văn hoá Quốc gia.
Hiện trong miếu còn lưu một bức tranh cổ
từ thế kỷ XVIII, vẽ chân dung vợ chồng vua tiền Lý Nam Đế và tôn hai vị làm Phúc thần đương
cảnh, với câu đối minh hoạ: Viêm bang
thống nhất sơn hà, càn khôn tịnh đại/ Thanh miếu Vạn Xuân hương hoả, đường bệ
tôn nghiêm.
Dân làng An Để còn xây ngôi đình làng thời
Lý Bí và tướng quân Triệu Quang Phục, ghi dấu ấn nhà vua khởi nghiệp ở làng. Hiện
đình làng còn đôi câu đối: Chí an thiên
hạ sinh vi Nam
Đế một vi thần/ Quốc hiệu Vạn Xuân tích tại Mần hương danh tại sử.
Ngoài ra cạnh miếu Vạn Xuân còn hai ngôi
chùa được tu bổ khang trang qua nhiều đời gọi là chùa Bà Đậu và chùa Ông Lâu.
Trong các chùa còn lưu giữ những bia cổ được dựng từ thời Trần ghi lại; “ Khi Tiền Lý Nam Đế qua đời, Hoàng hậu Linh Nhân
đã về quê xây hai ngôi chùa này để tu hành và rao giảng Kinh Phật cho chúng
dân”.
* * *
Theo ghi chép của Cao Biền, làng An Để nằm
trong dải đất “đệ lục mạch” là đất phát khôi khoa. Ngày xưa chẳng những ở nước
ta mà bên Trung Quốc nhiều người cũng biết tên địa danh này. Thế kỷ XVIII khi Lê
Quý Đôn sang sứ nhà Thanh, quan đốc học tỉnh Quảng Tây là một người thông kim bác
cổ, có hỏi: Ngài có biết Ba Đậu (tên của làng An Để bấy giờ) là đất phát khôi
khoa ở vùng nào không?. Nhiều người Hán từ xưa đã tìm tới vùng đất này đặt mộ.
Khu vực trung tâm của làng hiện còn nhiều ngôi mộ cổ không ai biết được xây từ
khi nào. Đặc biệt có một cây cổ thụ lạ, gốc thân xù xì như những bậc đá xếp gọi
là cây Uốp, tương truyền đã ngàn năm tuổi. Cây nở hoa vào mùa xuân, có mùi hôi hoi. Các nơi khác
trong vùng không thấy có loại cây này. Truyền rằng dưới gốc cây là một ngôi mộ Tầu
cổ. Người Tầu trồng cây độc này để đánh dấu mộ và mùi hôi thối của cây để ngôi
mộ không bị ai chiếm lấn đất. Bao đời nay bao nhiêu ao hồ đất đai, đình chùa của
làng bị dân lấn làm đất ở. Riêng khu vực xung quanh cây Uốp vẫn thênh thang bởi
không một ai dám ở gần.
Nhiều danh nhân Thái Bình như thân phụ
Phan bá Vành, hay Nguyễn Mậu Kiến, Nguyễn Doãn Cử cũng đặt mộ ở dải đất này.
Hơn hai trăm năm sau dự đoán của Cao Biền,
mệnh mạch văn chương của vùng đất này mới được khơi nguồn. Người mở mệnh mạch văn
chương là Đặng Nghiễm người làng An Để. Ông sinh năm 1155, là con trai đô đầu
hoả Đặng Khánh Hưng. Từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng, được chọn vào học ở Ngự Diên
( Nơi đào tạo các con em trong triều). Ông đỗ Minh Kinh bác học khoa Bính Thìn,
niên hiệu Trinh Phù thứ X đời Lý Cao Tông, xếp thứ hai sau Búi Quốc Khái. Ông được
nhà vua tin dùng và bổ chức Khuyết học ở các phủ. Sau phong chức Thuyết thư. Sách
Đại Nam thống nhất chí ghi về
ông: Là người mở đầu khoa hoạn cho các đại
khoa trong làng khoa cử vùng Sơn Nam . Làm quan tới chức Thị Lang
công bộ. Măm 55 tuổi (1210) cáo quan về bản quán dạy học, khai mở mệnh mạch văn
chương cho vùng đất này thành dòng chảy mãi về sau. Cháu nội ông là Đặng Diễn
cũng là người thông minh được chọn vào học ở Ngự Diên và nổi tiếng là người văn
tài kiệt xuất, từ khi còn rất trẻ. Đặng Diễn được nhà vua yêu quý thường cho
theo hộ giá. Năm 1231, ông được lãnh chức Ngự Diên bút thư, giúp nhà vua soạn
thảo các sắc chỉ. Năm 1232, tham dự kỳ thi Thái học sinh khoa Nhâm Thìn và đỗ
Hoàng giáp đứng đầu khoa thi. Năm 1234 Thượng hoàng Trần Thừa mất, ông được cử
chức Hộ tống Ngự quan đưa linh cữu về quê an táng. Sau ông được bổ làm Tá thư
tri Quốc Tử viên đào tạo nhân tài cho nước. Ngoài bốn mươi tuổi ông từ quan đi
tu ở Trúc Lâm. Cuối đời mất ở quê.
Con cháu họ Đặng làng An Để các đời sau
phiêu tán nhiều nơi lập nghiệp nhưng vẫn có nhiều người đỗ đạt làm quan ở các vùng
như: Cao Nghĩa thần Đặng Tạo ở Hậu Lộc, Thanh Hoá. Thám Hoa Đặng Ca Ma ở Tràng
Kênh, Hải Phòng... Làng mấy trăm năm vẫn tồn tại hai ngôi đình: Đình Cả thờ Thành
hoàng Triệu Quang Phục, ngôi đình Nội thờ các vị Đại khoa và quan chức các đời
họ Đặng.
Một vị Đại khoa làng An Để chưa có tên
trong danh sách các Trạng nghè Thái Bình là
Thái học sỹ Đỗ Nguyên Chương. Ông thi đỗ năm Giáp Dần (1314) đời vua Trần Minh
Tông, được cử làm “Triều liệt Đại phu, Hàn lâm học sỹ”, sau sang võ ban làm Thượng
kỵ đô uý. Bài minh khắc trong bia chùa Ông Lâu của ông, được Lê Quý Đôn coi là
Tài phẩm trong Kiến văn tiểu lục. Văn
bia có đoạn: “Sách Phật nói nếu lúc sống
làm điều lành, khi mất đi sẽ được phúc báo. Làm điều ác khi chết sẽ gặp tội
báo... Lời nói ngọt ngào vào sâu lòng người, được nhiều người vui vẻ nghe theo,
rồi cúng ruộng đất, tiền của dựng lên cây tháp chùa. Hy vọng các kiếp sau cũng
bền vững với sự tốt đẹp ấy”. Cây tháp chùa trong bài minh đã mấy đời hoang
phế, nhưng nó vẫn là nỗi khát khao, tâm niệm truyền kiếp của làng. Đến đầu thế
kỉ XXI, làng lại dồn tâm dồn sức dựng lên một cây tháp chuông mới. Đó là cây phúc,
giữ cho dân làng sống yên lành hơn.
Thế kỷ XIX, một người làng An Để lại đỗ
Nhị giáp tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp), đứng đầu kỳ thi Đình Nguyên, khoa Kỷ Dậu
(1949). Từ nhỏ ông đã nổi tiếng giỏi chữ nên được đưa vào học ở Quốc Tử giám
cung đình Huế. Sau khi thi đỗ ông được bổ làm Tri phủ Định Viễn, mất lúc 36 tuổi
do bị ngộ độc. Hiện văn bia còn ghi về ông: Là
người thông minh dĩnh ngộ, thẳng ngay, quy củ rèn luyện đức nhân. Thi lần đầu đã
đỗ Đình Nguyên, tấn thân trong danh dự. Tính ông giản dị, không phiền hà dân,
hết lòng chăm lo phận sự. Các sỹ tử, chúng dân mến mộ tin theo. Từng được Thánh
chỉ ban là học sỹ, tên ghi sổ vàng. Ông để lại tập Nam sử lược sách dùng làm giáo khoa thời bấy
giờ.
Ngoài bốn vị Đại khoa trên, làng An Để thời
nào cũng có những người học cao đỗ đạt. Các bậc Trung khoa như Hương cống, Cử
nhân, Hiếu liêm và phó trung khoa từ Sinh đồ đến Tú tài... có tới hàng trăm vị. Hiện làng còn có xóm Hầu, xóm Hoa (cạnh ngã tư An Để ngày
nay) tương truyền xưa là xóm của nhiều người đỗ Thám hoa, và là công hầu khanh
tước.
Trải hơn một ngàn năm, vùng đất này đã bị
thiên nhiên cũng như co người xoá đi nhiều dấu vết cổ xưa. Nhưng vùng đất trung
tâm của làng An Để xưa nay là khu ngã tư An Để - Chợ Chùa vẫn còn ngôi miếu Hai
Thôn (miếu Vạn Xuân cũ), ngôi chùa Phúc Minh (chùa Ông Lâu xưa) và chùa Bà Đậu
là nơi con cháu làng đi xa và du khách thập phương vẫn tấp nập tìm về.
Không biết phải xưng hô như thế nào. Cháu vậy.
Trả lờiXóaCháu là Hùng, Xóm An Lạc, làng An Để đây ạ.
Lang thang trên mạng tìm hiểu quê hương, vô tình đọc được Blog của bác. là người con An Để cháu cũng rất yêu quê hương, Mong sao học hành làm việc tốt để có thể vê giúp quê hương.
Sống ở làng mói thấy làng mình nghèo quá.
Cháu cũng chia sẻ bài viết này của bác cho các bạn cùng làng đọc, bởi cáu cũng như các bạn khác còn khá mơ hồ về làng mình.
Đọc bài của bác cháu nhận thấy một tấm lòng đau đáu vì quê hương của bác.
Mong rằng cháu có cơ hội gặp bác.
Cháu hiện đang học tại Hà Nội
Số điện thoại của cháu là 01633088745
Chúc bác sức khỏe tốt
Thưa Bác, Lời đầu tiên cho cháu xin chân thành cảm ơn bác. Cảm ơn lòng nhiệt huyết, tình yêu quê hương đất nước, yêu làng xóm của bác. Chúng cháu hay có thể kể cả lớp thế hệ trên cháu, cũng hiếm, ít có người biết và hiểu về lịch sử của địa phương mình. Qua bài viết- tâm huyết của bác đã giup cháu biết và hiểu hơn về lịch sử của địa phương và thêm yêu quê hương bản quán của mình Cháu tự hào khi giới thiệu với bác và mọi người là cây gạo sân đình An Để là do ông nội cháu trồng. Nơi sân đình gốc gạo cũng nhiều kỷ niệm với chúng cháu- về những ngày hè oi bức thường hay qua đó ngồi hóng mát, về những tối tập văn nghệ chuẩn bị cho đêm rước đèn trung thu trươc sân đình dưới tán cây gạo... Trong ký úc của cháu về đình An Để, chùa Phúc Minh, Miếu 2 Thôn, Chùa Đồng...rất đẹp bởi những ngày hội làng, ngày lễ tết ra chùa, ra đình xin lộc... toàn là địa danh cũ nhưng giờ với tên mới mà cháu được biết.
Trả lờiXóaCó thể bằng vài lời ngắn ngủi cháu ko thể hiện hết tình cảm và tự hào của mình về quê hương- làng xã.
Kính chúc bác và gia đình luôn mạnh khỏe,