Pháp
Bảo Đàn Kinh là một cuốn sách khai sơn phá thạch của đạo Phật mà tĩnh lặng như
không. Có nó mới có Thiền Tông Trung Hoa, mới có Zen Nhật Bản. Có nó thư pháp,
thư hoạ, Đường thi mới trở thành bất hủ. Có nó mới có những kiệt tác thi trung
hữu hoạ, hoạ trung hữư thi của Vương Duy, mới có những nét bút thần hồn nhiên
mà tươi mát như cỏ cây hoa lá của Tề Bạch Thạch...
Ảnh
hưởng của Pháp Bảo Đàn Kinh vượt xa văn hoá Phật giáo, vượt xa văn hoá phương Đông.
Nó kiến tạo lại nền văn hoá Trung hoa và âm thầm kiến tạo lại nền văn hoá thế
giới. Trong lĩnh vực khoa học, từ những ngữ ẩn trong Nam Hoa Kinh và
Pháp Bảo Đàn Kinh mà các bậc chân nhân mới lần ra hệ thống Kinh lạc trong cơ
thể con người để hoàn thiện phương pháp chẩn trị bệnh tật. Trang tử và Huệ Năng
chính là hai vị Tổ sư đưa nền y học cổ truyền phương Đông lên đỉnh cao mà Y học
hiện đại chỉ có thể vươn tới trong tương lai xa. Và... nói như giáo sư Phạm
Công Thiện về Lục tổ Huệ Năng vị Tổ đầu tiên của Thiền: Tất cả những quyển sách
khắp thế giới viết về Thiền Tông và Mật Tông đều là hý luận. Tổ sư Thiền và Như
Lai Thiền không khác nhau. Chỉ có thiền đúng nghĩa là thiền của Lục tổ Huệ Năng...
Bởi
giá trị của Pháp Bảo Đàn Kinh như thế nên xin đăng lại bản Kinh đó do Tỳ Kheo
Thích Duy Lực dịch và chú giải để gửi tới những ai quan tâm.
N.L
Phẩm Tựa Thứ Nhất
Khi Sư đến
chùa Bảo Lâm, có châu trưởng Thiều Châu tên là Vi Cứ và các quan chức vào núi
thỉnh Sư ra chùa Ðại Phạn ở trong thành vì tứ chúng khai duyên thuyết pháp. Sư
thăng toà, Vi Thứ Sử (châu trưởng) và các quan chức hơn ba chục người, học sĩ
nhà nho hơn ba mươi người, Tăng Ni cư sĩ hơn ngàn người, đồng thời đảnh lễ xin
nghe Pháp Yếu.
Sư nói: Thiện tri thức, tự tánh
của Bồ Ðề vốn thanh tịnh, chỉ dụng tâm này trực liễu thành Phật. Thiện tri thức, hãy nghe
việc đắc Pháp và sự việc của Huệ Năng. Huệ Năng quê quán ở Phạm Dương, cha bị
giáng chức đến Lãnh Nam, lưu lạc làm dân Tân Châu. Thân thế chẳng may cha lại
mất sớm, mẹ là goá phụ, nhà ở Nam Lộ, nghèo khổ phải đi bán củi ngoài chợ. Lúc
ấy có vị khách mua củi nhờ mang đến nhà, Huệ Năng được tiền đi ra, gặp một vị
khách đang tụng Kinh, Huệ Năng nghe được lời Kinh tâm liền khai ngộ, bèn hỏi
khách tụng Kinh gì? Khách nói là Kinh Kim Cang.
Hỏi: Ở đâu có Kinh Ðiển này?
Khách nói: Tôi từ Chùa Ðông Thiền,
huyện Huỳnh Mai Kỳ Châu đến. Chùa ấy do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Ðại Sư chủ hoá, môn
đồ hơn ngàn người, tôi đến đó lễ bái lãnh thọ Kinh này. Ngũ Tổ thường khuyên
Tăng tục trì Kinh Kim Cang thì được kiến tánh, trực liễu thành Phật.
Huệ Năng
nghe nói, lại cũng vì xưa kia có duyên, nên được một người khách cho mười lượng
bạc để cho mẹ già được sinh sống và bảo đi ngay đến Huỳnh Mai tham lễ Ngũ Tổ.
Huệ Năng sắp xếp cho mẹ xong, liền từ giã lên đường. Trải qua hơn ba mươi ngày
đường, đến huyện Huỳnh Mai lễ bái Ngũ Tổ.
Tổ hỏi: Ông là người phương nào,
muốn cầu việc gì? Huệ Năng nói: Ðệ tử là dân Tân Châu Lãnh Nam , từ xa đến
lễ bái, chỉ cầu làm Phật, chẳng cầu việc gì khác.
Tổ nói: Ông là người Lãnh Nam , cũng là
người kém văn hoá, làm sao có thể làm Phật được?
Huệ Năng
nói: Người
có Nam Bắc, Phật tánh vốn chẳng có Nam Bắc, thân hèn hạ này với thân Hoà Thượng
chẳng đồng, nhưng Phật tánh đâu có sai biệt!
Ý Ngũ Tổ
còn muốn nói thêm, nhưng thấy đồ chúng đứng xung quanh, nên bảo theo chúng làm
việc.
Huệ Năng
bạch Hoà Thượng: Tự tâm của đệ tử thường sanh trí huệ chẳng lià
tự tánh, tức là phước điền, chưa rõ Hoà Thượng bảo làm việc gì?
Tổ nói: Tên kém văn hoá này căn
khí lanh lợi, ngươi đừng nói nữa, hãy ra nhà sau đi!
Huệ Năng
lui đến nhà sau, có một cư sĩ sai Huệ Năng bửa củi giã gạo, trải qua hơn tám
tháng. Một ngày kia Tổ thình lình đến gặp Huệ Năng nói:Ta nghĩ cái thấy của
ngươi dùng được, vì sợ có kẻ ác hại ngươi, nên chẳng nói chuyện với ngươi,
ngươi có biết chăng?
Huệ Năng
nói: Ðệ
tử cũng biết ý của Thầy, nên chẳng dám đi đến nhà trước.
Một ngày
kia, Ngũ Tổ triệu tập môn đồ bảo rằng: Sanh tử là việc lớn, các ngươi suốt ngày
chỉ cầu phước điền, chẳng cầu lià khỏi biển khổ sanh tử, tự tánh nếu mê, phước
làm sao có thể cứu được? Các ngươi mỗi người hãy tự xem trí huệ, dùng bổn tâm
Bát Nhã của tự tánh, mỗi người làm một bài kệ trình cho ta xem, nếu ngộ được
đại ý, thì ta sẽ trao truyền y bát cho làm Tổ thứ sáu; hãy mau lên chẳng được
chậm trễ, hễ lọt vào suy lường thì chẳng dùng được. Người
kiến tánh vừa nghe phải liền thấy, nếu được như vậy thì khi ra trận giữa đao
kiếm cũng phải thấy được.
Ðại chúng
nghe xong nói với nhau rằng: Chúng ta chẳng cần nhọc tâm mệt trí làm kệ, đâu có
ích gì, vì có Thượng Tọa Thần Tú hiện làm giáo thọ sư, chắc chắn sẽ được, chúng
ta làm kệ chỉ phí sức thôi, chúng ta về sau y chỉ Sư Thần Tú cũng được rồi.
Ngài Thần Tú suy nghĩ: Ðại chúng chẳng trình kệ, vì ta là giáo thọ sư của họ,
ta phải làm kệ trình Hoà Thượng. Nếu chẳng trình kệ thì Hoà Thượng làm sao biết
được kiến giải sâu cạn trong tâm ta, ý của ta trình kệ vì cầu Pháp thì tốt, vì
mong làm Tổ thì không nên, chẳng khác nào dùng tâm phàm mà đoạt Thánh vị. Nếu
chẳng trình kệ thì làm sao đắc Pháp được, thực khó! Thực khó!
Nơi hành
lang trước Pháp đường, Ngũ Tổ định mời họa sĩ đến vẽ Biến Tướng Kinh Lăng Già
và Ngũ Tổ Huyết Mạch Ðồ, để cúng dường và lưu truyền đời sau. Khi Thần Tú làm
kệ xong, mấy lần muốn vào trình, nhưng khi đến trước Pháp đường thì trong tâm
bấn loạn, mồ hôi ướt đẵm mình. Như vậy trải qua bốn ngày, mười ba lần muốn vào
trình vẫn chưa trình được, sau cùng Thần Tú suy nghĩ: Chi bằng ghi trên vách
tường hành lang để Hoà Thượng thấy được; nếu Tổ nói tốt thì ta ra lễ bái nói
của Thần Tú làm, nếu nói là chẳng được thì uổng công ta ở núi mấy năm, lại tu
Ðạo gì mà được nhận lễ bái của người! Nửa đêm đó không cho ai hay, tự cầm đèn
viết kệ trên vách hành lang phiá Nam , trình sở thấy của tự tâm, kệ
rằng:
Thân thị
Bồ Ðề thụ,
Tâm như
minh cảnh đài,
Thời thời
cần phất thức,
Vật sử nhạ
trần ai.
Dịch
nghiã:
Thân là
cây Bồ Ðề,
Tâm như
đài gương sáng,
Luôn luôn
siêng lau chùi,
Chớ cho
dính bụi trần.
Thần Tú
viết kệ xong, liền về phòng, không ai hay. Tú lại suy nghĩ: Ngày mai, Ngũ Tổ
thấy kệ hoan hỷ thì ta có duyên với Pháp, nếu nói không được thì đó là tại ta
còn mê, nghiệp chướng xưa nặng nề, chẳng đặng đắc Pháp, Thánh ý thật khó lường!
Tú ở trong phòng suy nghĩ, ngồi nằm chẳng yên cho đến gần sáng.
Tổ đã biết
Thần Tú chưa được vào cửa, chẳng thấy tự tánh. Trời sáng, Tổ kêu hoạ sĩ đến
hành lang để vẽ, thình lình thấy kệ, bèn nói với họa sĩ: Thôi, chẳng cần vẽ
nữa, làm lao nhọc cho ông từ xa đến đây.
Kinh nói:
Phàm tất cả tướng đều là hư vọng. Nay chỉ cần để bài kệ này cho người trì tụng,
y kệ này tu, khỏi đọa ác đạo, y kệ này tu, được ích lợi lớn. Bèn kêu môn đồ đốt
nhang kính lễ, bảo cả thảy đều tụng kệ này sẽ được kiến tánh. Môn đồ tụng kệ
đều khen: lành thay!
Nửa đêm Tổ
kêu Thần Tú vào phòng hỏi: Kệ phải do ông làm chăng? Tú nói: Thiệt là Tú làm,
chẳng ham vọng cầu Tổ vị, mong Hoà Thượng từ bi, xem đệ tử có chút ít trí huệ
chăng?
Tổ nói: Ông làm kệ này chưa thấy
bản tánh, chỉ đến ngoài cửa, chưa vào trong, kiến giải như thế tìm vô thượng bồ
đề chẳng thể được. Vô thượng bồ đề phải khi vừa nói liền nhận tự
bổn tâm, thấy tự bản tánh, chẳng sanh chẳng diệt, với bất cứ giờ nào, niệm niệm
tự thấy, chẳng kẹt vào vạn pháp, nhứt chơn nhứt thiết chơn, vạn cảnh tự như
như, cái tâm như như tức là chân thật. Nếu thấy như thế tức là vô thượng bồ đề
của tự tánh. Ông tạm đi ra suy nghĩ một vài ngày nữa, làm bài
kệ khác cho ta xem, nếu kệ ông vào được cửa, thì ta sẽ truyền trao y pháp.
Thần Tú
đảnh lễ lui ra, trải qua mấy ngày sau làm kệ chẳng được, trong tâm rối loạn tâm
thần chẳng yên, cũng như trong mộng, đi ngồi chẳng vui.
Qua hai
ngày sau, có một đồng tử đi ngang qua phòng giã gạo, xướng tụng bài kệ, Huệ
Năng nghe được liền biết kệ này chưa thấy bản tánh, dù chưa được sự dạy bảo của
Tổ, nhưng đã biết được đại ý, bèn hỏi đồng tử rằng: Tụng kệ gì? Ðồng tử nói: Kẻ
kém văn hoá này chẳng biết, Ðại Sư nói: Sanh tử là việc lớn, muốn truyền trao y
pháp, nên bảo môn đồ làm kệ trình xem, nếu ngộ đại ý thì sẽ được truyền trao y
pháp làm Tổ thứ sáu. Thượng Tọa Thần Tú viết kệ Vô Tướng trên vách tường hành
lang. Ðại Sư bảo mọi người đều tụng, y kệ này tu khỏi đọa ác đạo, y kệ này tu
sẽ được lợi ích lớn.
Huệ Năng
nói: Thưa
Thượng nhơn, tôi giã gạo ở đây hơn tám tháng, chưa từng đi đến nhà trước, mong
Thượng nhơn dẫn tôi đến trước bài kệ lễ bái. Ðồng tử liền dẫn đến trước bài kệ,
lễ bái xong,
Huệ Năng
nói: Huệ
Năng chẳng biết chữ, xin Thượng nhơn đọc giùm. Lúc ấy có quan biệt giá Giang
Châu là Trương Nhựt Dụng, liền lớn tiếng đọc, Huệ Năng nghe xong bèn
nói: Tôi
cũng có một bài kệ, xin Biệt Giá viết giùm. Biệt Giá nói: Ông cũng làm kệ à,
việc này hi hữu!" Huệ Năng nói với Biệt Giá rằng: Muốn học Vô Thượng Bồ
Ðề, chẳng nên khinh bỉ kẻ sơ học, hạ hạ nhơn hữu thượng thượng trí, thượng
thượng nhơn hữu một (chìm mất) ý trí. Biệt Giá nói: Ông hãy tụng kệ đi, ta viết
giùm cho. Ông nếu đắc pháp phải độ ta trước, về sau chớ quên lời này.
Huệ Năng
kệ rằng:
Bồ đề bổn
vô thụ,
Minh cảnh
diệc phi đài.
Bổn lai vô
nhất vật,
Hà xứ nhạ
trần ai?
Dịch
nghiã:
Bồ đề vốn
chẳng cây,
Gương sáng
cũng chẳng đài,
Xưa nay
không một vật,
Nơi nào
dính bụi trần?
Kệ viết
xong, đồ chúng đều ngạc nhiên tán thán với nhau: Lạ thay, chẳng nên theo tướng
mạo mà đánh giá người, không ngờ nay có nhục thân Bồ Tát mà chẳng biết!
Tổ thấy
đại chúng kinh quái, sợ người ám hại, nên lấy giày bôi bài kệ, nói rằng: Cũng
chưa thấy tánh. Mọi người cho là phải. Hôm sau Tổ lén đến nhà giã gạo, thấy Huệ
Năng lưng đeo đá giã gạo, nói rằng: Người cầu Ðạo cần phải như thế. Lại hỏi: Gạo trắng chưa? Huệ Năng đáp: Trắng đã lâu, còn thiếu giần sàng
thôi. Tổ lấy gậy gõ trên cối ba cái rồi bỏ đi. Huệ Năng hiểu ý Tổ, nên canh ba
vào thất. Tổ dùng Ca sa che lại không cho người thấy, rồi thuyết Kinh Kim Cang,
đến câu: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm thì Huệ Năng ngay đó đại ngộ tất cả vạn
pháp chẳng lià tự tánh, bèn bạch Tổ rằng:
Ðâu ngờ tự
tánh vốn tự thanh tịnh,
Ðâu ngờ tự
tánh vốn chẳng sanh diệt,
Ðâu ngờ tự
tánh vốn tự đầy đủ,
Ðâu ngờ tự
tánh vốn chẳng lay động,
Ðâu ngờ tự
tánh hay sanh vạn pháp!
Tổ biết
Huệ Năng đã ngộ bản tánh, nên nói với Huệ Năng rằng: Chẳng nhận được bổn tâm,
học pháp vô ích, nếu nhận được bổn tâm, thấy được bổn tánh, tức gọi là Trượng
Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật. Nửa đêm thọ pháp chẳng ai biết, Tổ bèn truyền pháp
đốn giáo và y bát nói rằng: Ngươi là Tổ thứ sáu, khéo tự hộ niệm, độ khắp
hữu tình, phổ biến lưu truyền cho đời sau, đừng để đoạn dứt.Nghe ta nói kệ đây:
Hữu tình
lai hạ chủng,
Nhơn địa
quả hườn sanh,
Vô tình
diệc vô chủng,
Vô tánh
diệc vô sanh.
Dịch
nghiã:
Hữu tình
được gieo giống,
Nhơn gieo
quả ắt sanh,
Vô tình
thì vô chủng,
Vô tánh
cũng vô sanh.
LƯỢC
GIẢI:Sinh vật có hai loại: hữu tình là động vật, vô tình là thực vật. Hữu tình
mới được gieo giống Phật, vô tình thì không; có giống là nhơn, ắt sẽ sanh quả.
Nhơn địa là hữu tình, quả địa là Phật. Vô tình chẳng phải nhơn địa của Phật nên
chẳng phải là giống (vô chủng). Tất cả pháp vốn chẳng có tự tánh, nên nói vô
tánh. Vậy thì hữu tình và vô tình, Phật và chúng sanh đều chẳng có tự tánh,
cũng là pháp vô sanh vậy. Nên nói: Vô tánh diệc vô sanh. Vì đây là kệ truyền
pháp, kệ truyền pháp chẳng được lọt vào tứ cú.
Hỏi: Ðã
nói không lọt vào tứ cú, tại sao nói vô tánh diệc vô sanh? Như vậy là lọt vào
cú thứ nhì rồi?
Ðáp: Nói
tất cả pháp vốn chẳng tự tánh thì làm sao có vô tánh và vô sanh để làm tự tánh!
Hành giả đọc đến chỗ này, chớ nên dùng ý thức để lãnh hội, cho là đúng hay
không đúng: Ðã nói pháp vô sanh thì làm sao sanh ra pháp đúng và pháp không
đúng? Ðây là cửa ải của Thiền môn, cần phải thấu qua (tự ngộ) mới được.Kệ này
lược giải là để phá chấp, còn muốn hiểu ý Tổ, cần phải tự tham ngộ mới được.
Tổ lại
nói: Khi
xưa Ðạt Ma Ðại Sư mới tới xứ này, vì người ta chưa đủ lòng tin, nên mới truyền
y bát để làm tín thể (vật làm tin) đời đời truyền nhau thành pháp tắc, lấy tâm
truyền tâm đều bảo tự ngộ tự giải, từ xưa Phật Phật chỉ truyền bản thể, Tổ Tổ
mật phó bản tâm. Y bát là mối tranh giành, tới đời ngươi phải ngưng truyền. Nếu
truyền y bát là việc rất nguy hiểm, ngươi phải đi cho mau, kẻo có người ám hại.
Huệ Năng
bạch rằng: Ði xứ nào?
Tổ nói:
Gặp Hoài thì ngừng, gặp Hội thì ẩn.
Canh ba
lãnh y bát xong, Huệ Năng được Ngũ Tổ đưa đến bến đò Cửu Giang. Xuống thuyền,
Huệ Năng giành chèo.
Tổ nói: Ðúng ra ta phải độ.
Huệ Năng
nói: Khi
mê thì Thầy độ, ngộ rồi tự độ." (Ðộ có hai nghiã: 1-Cứu
độ. 2-Ðưa đò.) Nói độ là một, nhưng chỗ dùng chẳng đồng. Huệ
Năng sanh nơi biên địa nên giọng nói khó nghe. Ðược Thầy truyền pháp, nay đã
được ngộ, chỉ nên tự tánh tự độ vậy.
Tổ nói: Như thế! Như thế! Về sau
Phật Pháp do ngươi được thịnh hành, ngươi cứ hướng về phiá Nam mà đi, chẳng nên thuyết pháp
sớm, vì Phật Pháp phải tùy duyên.
Huệ Năng
từ biệt Tổ, hướng về Nam
trải qua hai tháng tới núi Ðại Du Lãnh. Ngũ Tổ trở về, mấy ngày chẳng thượng
đường, đại chúng nghi ngờ hỏi: Hoà Thượng có bệnh gì chăng? Tổ nói: Bệnh thì
không có, nhưng y pháp đã về Nam
rồi. Hỏi: Ai được truyền thụ? Ðáp: Kẻ nào Năng thì được.
Khi ấy đại
chúng mới biết, nên có mấy trăm người đuổi theo để đoạt y bát, trong đó có một
Tăng tên tục là Trần Huệ Minh ngày trước làm Tứ Phẩm tướng quân, tánh tình thô
bạo, dẫn đầu đi trước, đuổi kịp Huệ Năng. Huệ Năng bỏ y bát trên
tảng đá nói rằng: Y bát là vật làm tin, há dùng sức mà đoạt được
sao? Liền ẩn mình trong đám cỏ. Huệ Minh đến, muốn lấy y bát mà chẳng nhúc
nhích được, liền kêu: Hành giả! Hành giả! Tôi vì Pháp đến, chẳng vì Y
đến. Huệ
Năng liền ra ngồi trên tảng đá, Huệ Minh đảnh lễ nói rằng: Mong hành giả vì tôi
thuyết Pháp. Huệ Năng nói:Ông đã vì Pháp mà đến đây, thì nên
ngưng nghỉ các duyên, chớ sanh một niệm,ta sẽ vì ông mà thuyết.
Một hồi
sau Huệ Năng nói: Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đang khi ấy cái
nào là bổn lai diện mục của Thượng Tọa Minh? Huệ Minh ngay đó đại
ngộ, lại hỏi rằng: Ngoài lời mật ý kể trên, còn có ý nào bí mật chăng? Huệ Năng nói: Ðã nói với ông thì chẳng
phải mật rồi, nếu ông phản chiếu thì mật tại bên ông. Minh nói: Huệ Minh dù ở Huỳnh Mai,
thật chưa tỉnh ngộ diện mục của tự kỷ, nay được khai thị, như người uống nước,
lạnh nóng tự biết. Nay hành giả tức là Thầy của Huệ Minh vậy. Huệ Năng nói: Nếu ông như thế, thì ta
với ông cùng thờ một Thầy Huỳnh Mai, hãy khéo tự hộ trì.
Huệ Minh
lại hỏi: Huệ Minh về sau đi xứ nào? Ðáp: Gặp Viên thì ngừng,
gặp Mông thì ở.
Minh đảnh
lễ giã từ. (Minh trở xuống chân núi, nói với đại chúng rằng: Chẳng thấy dấu vết
nào hết, phải đi hướng khác mà tìm. Chúng đều tin. Về sau Huệ Minh đổi tên
thành Ðạo Minh để tránh sự trùng tên với Thầy).
Huệ Năng
đến Tào Khê, bị bọn ác tìm theo, nên phải lánh nạn trong đám thợ săn nơi Tứ
Hội, trải qua mười lăm năm, thường vì thợ săn tùy nghi thuyết pháp. Bọn họ bảo
giữ lưới, mỗi khi thấy cầm thú lọt vào đều thả ra hết. Tới bữa ăn, gởi rau
trong nồi thịt, có người hỏi thì trả lời: Chỉ ăn rau luộc bên cạnh thịt mà
thôi.
Một ngày
kia nghĩ rằng: Ðã đến lúc phải hoằng Pháp, không nên ẩn hoài", liền ra
chùa Pháp Tánh Quảng Châu, gặp Ấn Tông Pháp Sư giảng Kinh Niết Bàn. Có hai vị
Tăng tranh luận về nghiã gió và lá phướn; kẻ nói gió động, người nói phướn
động, tranh cãi không ngừng, Huệ Năng chen vào nói: Chẳng phải gió động, chẳng
phải phướn động, mà là tâm các ông động." Cả chúng đều ngạc nhiên. Ấn Tông
mời Năng ra ngồi trên Cao Toà, hỏi những nghiã lý thâm sâu, thấy Huệ Năng lời
gọn mà đúng lý, chẳng do văn tự.
Ấn Tông
nói: Hành
giả ắt chẳng phải người thường, lâu nay đã nghe Y Pháp Huỳnh Mai về Nam , có phải là
hành giả chăng?
Huệ Năng
nói: Không
dám."
Ấn Tông
liền đảnh lễ, xin thỉnh Y Bát ra cho đại chúng xem.
Ấn Tông
hỏi rằng: Sự phó chúc của Huỳnh Mai truyền thọ như thế
nào? Huệ
Năng nói: Truyền thọ thì không, chỉ cần kiến tánh, chẳng
cần thiền định giải thoát.
Ấn Tông
hỏi: Tại
sao chẳng cần thiền định giải thoát?
Ðáp: Vì đó là nhị pháp, chẳng
phải Phật Pháp. Phật Pháp là pháp bất nhị.
Ấn Tông
lại hỏi: Thế nào là Pháp Bất Nhị của Phật Pháp?
Ðáp: Pháp Sư giảng Kinh Niết
Bàn, đã rõ Phật tánh là Pháp Bất Nhị của Phật Pháp! Như trong Kinh Niết Bàn
nói: Cao Quý Ðức Vương Bồ Tát bạch Phật rằng: Phạm tứ trọng cấm (bốn giới trọng
nhất trong giới Tỳ kheo, giống như người thế gian phạm tội tử hình), làm tội
ngũ nghịch và nhất xiển đề, phải bị đoạn dứt thiện căn Phật tánh không? Phật nói: Thiện căn có hai, một là
thường, hai là vô thường, Phật tánh phi thường phi vô thường, nên chẳng đoạn
dứt, gọi là bất nhị. Một là thiện, hai là bất thiện, Phật tánh phi thiện, phi
bất thiện, gọi là bất nhị. Uẩn và Giới, phàm phu thấy cho là nhị, người trí
liễu đạt thì biết tánh ấy bất nhị, tánh bất nhị tức là Phật tánh vậy. Ấn Tông
nghe xong hoan hỷ chắp tay rằng: Tôi giảng Kinh như gạch nát ngói bể, ông giảng
nghiã cũng như vàng ròng. Do đó, vì Huệ Năng xuống tóc, nguyện thờ làm Thầy.
Huệ Năng
bèn ở nơi gốc cây Bồ Ðề khai giảng Pháp môn Ðông Sơn (Ngũ Tổ): Huệ Năng đắc pháp nơi
Ðông Sơn, chịu nhiều cay đắng, gặp nhiều nguy hiểm, tánh mạng tựa như chỉ mành,
hôm nay được cùng các quan, các Tăng Ni đạo tục đồng tụ tại hội này, là do quá
khứ nhiều kiếp cúng dường chư Phật, cùng gieo thiện căn mới được nghe cái nhơn
đắc pháp và Pháp Ðốn Giáo kể trên. Giáo Pháp là do bậc Thánh xưa truyền lại,
chẳng phải tự trí của Huệ Năng. Người muốn nghe Giáo Pháp của bậc Thánh xưa,
phải làm cho tâm thanh tịnh (trong sạch), nghe rồi phải tự đoạn trừ nguồn gốc
nghi ngờ giống như các bậc Thánh xưa chẳng có khác biệt.Ðại chúng nghe pháp
xong hoan hỷ đảnh lễ lui ra.
Phẩm Bát Nhã Thứ Hai
Qua ngày sau, Vi Sử Quân
lại xin giảng nữa, Sư thăng toà bảo đại chúng rằng: Cần phải tĩnh tâm niệm Ma
Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða. Lại nói: Thiện tri thức, trí bồ đề Bát Nhã của chúng
sanh vốn tự có, chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ đại thiện tri thức
khai thị dẫn dắt để đi đến kiến tánh. Phải biết Phật tánh của kẻ ngu người trí
vốn chẳng sai biệt, chỉ vì mê ngộ chẳng đồng, nên mới có kẻ ngu người trí. Nay
ta thuyết Pháp Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, khiến cho mọi người đều được trí huệ,
hãy chú tâm nghe: Thiện tri thức, người đời suốt ngày miệng niệm BÁT NHÃ, chẳng nhận được TỰ TÁNH BÁT NHÃ, cũng
như nói ăn mà chẳng no, miệng chỉ thuyết KHÔNG, muôn kiếp chẳng
được KIẾN
TÁNH, rốt
cuộc vô ích.
Thiện tri thức, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật là tiếng Phạn, dịch là
đại trí huệ đến bờ bên kia, đây cần phải tâm hành, chẳng ở miệng niệm, miệng
niệm tâm chẳng hành thì cũng như huyễn hoá. Miệng niệm tâm hành, thì tâm và
miệng tương ưng. Bản tánh là Phật, lià tánh chẳng có Phật.
Sao gọi là Ma Ha? Ma Ha là đại, tâm
lượng quảng đại như hư không, chẳng có biên giới, cũng chẳng vuông tròn lớn
nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng chẳng trên dưới dài ngắn, cũng
chẳng giận, chẳng vui, chẳng phải chẳng quấy, chẳng thiện chẳng ác, chẳng đầu
chẳng đuôi. Các cõi Phật đều đồng như hư không, diệu tánh con người vốn không,
chẳng có một pháp có thể đắc, tự tánh chơn không cũng như thế. Thiện tri thức, chớ nên
nghe ta nói KHÔNG mà liền chấp KHÔNG. Trước nhất chớ
chấp KHÔNG, nếu để tâm KHÔNG tĩnh tọa là lọt vào VÔ KÝ KHÔNG. Thiện tri thức, thế giới
hư không bao hàm sắc tướng vạn vật, mặt trời mặt trăng, núi sông đất đai, cây
cối, biển lớn, kẻ dữ người lành, pháp ác pháp thiện, thiên đàng địa ngục, tất
cả đều ở trong hư không, TÁNH KHÔNG của con người cũng vậy.
Thiện tri thức, tự tánh hay bao hàm muôn pháp là ЀI,muôn pháp đều ở
trong tự tánh của con người. Nếu thấy điều dữ điều lành của người, tất cả đều
chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng chấp chẳng nhiễm, tâm như hư không gọi là ЀI, nên nói là MA HA. Thiện tri thức, kẻ mê
miệng nói, người trí tâm hành. Lại có kẻ mê để tâm không mà tĩnh tọa, trăm điều
chẳng nghĩ, tự xưng là đại, với bọn người này không thể nói gì được, vì họ bị
rơi vào tà kiến. Thiện tri thức, tâm lượng quảng đại cùng khắp pháp giới, dùng
thì liễu liễu rõ ràng, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả tức một, một tức tất
cả, tới lui tự do, tâm thể vô ngại tức là BÁT NHÃ.
Thiện tri thức, tất cả TRÍ BÁT NHÃ đều từ tự tánh mà sanh,
chẳng từ bên ngoài vào, chớ lầm dùng ý thức, gọi là chơn tánh tự dụng. Nhất
chơn nhất thiết chơn, tâm lượng là việc lớn, chẳng nên hành đạo nhỏ, miệng chớ
trọn ngày nói không mà trong tâm chẳng tu hạnh này, giống như thường dân tự
xưng là vua thì không được, hạng người này chẳng phải đệ tử của ta.
Thiện tri thức, sao gọi
là BÁT
NHÃ? BÁT NHÃ dịch là trí huệ. Bất cứ nơi nào lúc nào, niệm niệm chẳng ngu muội
(chẳng chấp thật), thường hành đúng trí huệ, tức là hạnh BÁT NHÃ. Một niệm ngu
muội (chấp thật) thì BÁT NHÃ tuyệt, một niệm trí huệ thì BÁT NHÃ sanh. Con người
ngu mê chẳng thấy BÁT NHÃ, miệng nói BÁT NHÃ mà trong tâm thường ngu muội, tự
nói ta tu BÁT NHÃ, niệm niệm nói KHÔNG mà chẳng biết CHƠN KHÔNG. BÁT NHÃ không hình
tướng, ấy là tâm trí huệ, nếu hiểu thấu như thế gọi là TRÍ BÁT NHÃ.
Sao gọi Ba La Mật? Ba La Mật là tiếng Ấn
Ðộ, dịch là đến bờ bên kia, nghiã là lià sanh diệt. Chấp cảnh thì sanh diệt dấy
lên như nước nổi làn sóng, tức gọi bờ bên này, lìa cảnh thì chẳng sanh diệt như
nước chảy im lìm, tức là bờ bên kia, nên gọi Ba La Mật. Thiện tri thức, kẻ mê
miệng niệm, đang trong lúc niệm có vọng có sai, niệm niệm nếu hành, gọi là chơn
tánh. Kẻ ngộ pháp này là PHÁP BÁT NHÃ, kẻ tu hạnh này là H€NH BÁT NHÃ, chẳng tu
tức là phàm phu, một niệm tu hành, tự thân bằng Phật. Thiện tri thức, phàm phu tức Phật, phiền
não tức Bồ Ðề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước
chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lià cảnh tức Bồ Ðề.
Thiện tri thức! MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT,
tối cao tối thượng tối đệ nhất, không trụ không đi cũng không đến, tam thế chư
Phật từ đó ra. Cần phải dùng ЀI TRÍ HUỆ, phá ngũ uẩn phiền não trần lao, tu
hành như thế, nhất định thành Phật, đổi TAM ÐỘC thành GIỚI, ÐỊNH, HUỆ. Thiện
tri thức, pháp môn này từ một BÁT NHÃ mà sanh ra tám mươi bốn ngàn trí huệ. Tại
sao vậy? Vì con người có tám mươi bốn ngàn trần lao, nếu không có trần lao thì
trí huệ luôn luôn hiển hiện, chẳng lià tự tánh. Người ngộ pháp này tức là vô
niệm, vô ức (không ghi nhớ), vô nhiễm trước, chẳng khởi cuồng vọng. Ðối với tất
cả pháp, dùng trí huệ của chơn như tự tánh chiếu soi, chẳng lấy chẳng bỏ, tức
là KIẾN
TÁNH THÀNH PHẬT. Thiện tri thức, muốn đi vào pháp giới thâm sâu
và BÁT NHÃ TAM MUỘI, phải tu hạnhBÁT NHÃ, thực hành theo Kinh Kim
Cang thì sẽ được KIẾN TÁNH. Phải biết cái công đức của Kinh này vô lượng vô
biên, trong Kinh rõ ràng tán thán, chẳng thể kể xiết. Pháp môn này là TỐI THƯỢNG THỪA, vì
người đại trí mà thuyết, vì người thượng căn mà thuyết, kẻ căn khí nhỏ nghe
được khó tin. Tại sao vậy? Ví như trận mưa bão lụt, thành thị nông thôn đều bị
cuốn trôi như cỏ lá, nếu mưa bão trong biển lớn thì chẳng thêm chẳng bớt; như
người thượng thừa, người tối thượng thừa nghe được Kinh Kim Cang, tâm liền khai
ngộ. Nên biết tự tánh vốn có cái TRÍ BÁT NHÃ, trí huệ tự tánh thường chiếu soi
nên chẳng nhờ văn tự, ví như nước mưa, chẳng do trời có mà do khí trời làm nên,
khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cây cối, hữu tình vô tình, đều được thấm
nhuần, tất cả sông ngòi đều chảy về biển lớn, hợp thành nhất thể. Cái TRÍ TỰ TÁNH BÁT NHÃ của chúng sanh cũng vậy.
Thiện tri thức, kẻ tiểu căn nghe được PHÁP MÔN ÐỐN GIÁO này, cũng như cây cỏ mà
gặp mưa bão, đều tự gãy đổ chẳng sanh trưởng được, kẻ tiểu căn thì cũng như
vậy: họ vốn có cái TRÍ BÁT NHÃ đồng với người đại trí,
chẳng có khác biệt, tại sao nghe Pháp mà chẳng được tự ngộ? Ðó là do tà kiến
chướng nặng, phiền não căn sâu, cũng như mây lớn che khuất mặt trời, chẳng được
gió thổi nên chẳng hiện ánh sáng. CÁI TRÍ của BÁT NHÃ vốn chẳng lớn nhỏ, chỉ vì
tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng, tâm mê tu hành hướng ngoại tìm Phật
mà chưa ngộ tự tánh, tức là tiểu căn. Nếu khai ngộ đốn giáo, chẳng chấp lấy hình
tướng bên ngoài, chỉ ở trong tự tâm thường khởi chánh kiến, phiền não trần lao
thường chẳng ô nhiễm, tức là KIẾN TÁNH. Thiện tri thức, trong ngoài chẳng trụ,
đi lại tự do, nếu trừ được chấp tâm thì thông đạt vô ngại. Nếu tu được hạnh
này, với Kinh BÁT NHÃ vốn chẳng sai biệt. Thiện tri thức, tất cả Kinh điển và
văn tự, đại tiểu nhị thừa, mười hai bộ Kinh đều do người đặt ra, vì có tánh trí
huệ mới được kiến lập; nếu chẳng có con người thì vạn pháp vốn chẳng tự có. Nên
biết vạn pháp vốn do tâm người kiến tạo, tất cả Kinh sách là vì con người mà
nói. Vì trong con người có kẻ ngu người trí, ngu là tiểu nhơn, trí là đại
nhơn,kẻ ngu hỏi pháp với người trí, người trí thuyết pháp cho kẻ ngu, kẻ ngu
đốn ngộ tự tâm thì chẳng khác với người trí vậy.
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật
tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở
nơi tự tâm, vậy sao chẳng ở trong tự tâm đốn thấy chơn như bản tánh? Kinh Phạm
Võng nói: Tự tánh vốn thanh tịnh, nếu nhận được tự tâm,
thấy được bản tánh, tức thành Phật đạo. Kinh Duy Ma Cật nói: Ngay
lúc đó hoát nhiên đốn ngộ, liền được bổn tâm. Thiện tri thức, ta ở nơi Hoà
Thượng Hoằng Nhẫn vừa nghe câu nói liền ngộ, đốn thấy chơn như bản tánh, cho
nên hoằng dương giáo pháp này, khiến hành giả đốn ngộ Bồ Ðề, mọi người tự thấy
bổn tâm, tự kiến bản tánh, nếu chẳng tự ngộ, phải tìm người đã khai ngộ pháp
tối thượng thừa, chỉ ngay đường lối CHÁNH PHÁP, vì thiện tri thức có nhân duyên
lớn giáo hoá dẫn dắt, khiến hành giả được KIẾN TÁNH, tất cả thiện pháp đều do
thiện tri thức mà được kiến lập. Tam thế chư Phật, mười hai bộ Kinh ở trong tự
tánh vốn đã đầy đủ, vì tự ngộ chẳng được, nên phải nhờ thiện tri thức chỉ ra
mới thấy, kẻ tự ngộ thì chẳng phải nhờ đến người khác. Nếu cố chấp rằng phải
luôn luôn ỷ lại thiện tri thức mới mong được giải thoát thì không bao giờ được.
Tại sao vậy? Vì ở trong tự tâm sẵn có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà kiến mê chấp
vọng tưởng điên đảo, dẫu cho gặp thiện tri thức dạy bảo cũng chẳng cứu được.
Nếu khởi chơn chánh BÁT NHÃ tham cứu, trong một sát na vọng tưởng đều tiêu,
nhận được tự tánh, đốn siêu Phật địa. Thiện tri thức, dùng trí huệ chiếu soi,
trong ngoài sáng tỏ rõ ràng thì nhận được bổn tâm. Nếu nhận được bổn tâm tức
vốn là giải thoát, được giải thoát tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI, BÁT
NHÃ TAM MUỘI tức là VÔ NIỆM.
Sao gọi là vô niệm? Nếu
thấy tất cả pháp tâm không nhiễm trước gọi là VÔ NIỆM, dùng thì khắp
nơi, cũng chẳng dính mắc ở khắp nơi, hễ sạch được bổn tâm, khiến lục thức ra
cửa lục căn, đối với lục trần mà chẳng nhiễm chẳng trước, đi lại tự do, ứng
dụng vô ngại tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI, tự tại giải thoát, gọi là hạnh
VÔ NIỆM. Chứ chẳng phải như người lầm tưởng cho là ẹtrăm
điều chẳng nghĩ, chỉ cho niệm tuyệtế, ấy là pháp trói buộc, tức là biên kiến.
Thiện tri thức, kẻ ngộ phápVÔ NIỆM thông đạt vạn pháp, ngộ
pháp VÔ
NIỆM thấy
được cảnh giới chư Phật, ngộ pháp VÔ NIỆM được đến địa vị Phật.
Thiện tri thức, nếu người đời sau ngộ được pháp này, đem pháp môn đốn giáo này
với những người đồng một chánh kiến chánh hạnh phát nguyện cùng tu, như cúng
dường Phật mà suốt đời chẳng thối lui, người ấy nhất định được vào Thánh vị.
Nhưng phải truyền thọ,
từ trước đến nay các Tổ đều mặc truyền tâm ấn, chẳng được ẩn giấu Chánh Pháp.
Nếu chẳng phải đồng một chánh kiến, chánh hạnh, là người đã ở trong pháp khác
thì chẳng được truyền thọ, vì sợ kẻ ngu chẳng hiểu, lại sanh phỉ báng pháp môn
này, phá hoại truyền thống CHÁNH PHÁP của Cổ Ðức, làm cho muôn ngàn kiếp sau
đoạn dứt Phật chủng, cuối cùng vô ích.
Thiện tri thức, nay ta
có một bài VÔ TƯỚNG TỤNG, mọi người hãy tự giữ lấy, không
kể xuất gia, tại gia, nên y theo bài tụng mà tu hành, nếu chẳng tự tu mà chỉ
ghi nhớ lời ta cũng chẳng ích lợi gì. Bài tụng rằng:
Thuyết thông cập tâm
thông,
Như nhựt xử hư không,
Duy truyền kiến tánh
pháp,
Xuất thế phá tà tông.
Pháp tức vô đốn tiệm,
Mê ngộ hữu trì tật,
Chỉ thử kiến tánh môn,
Ngu nhơn bất khả tất.
Thuyết tức tuy vạn ban,
Hợp lý hườn quy nhất.
Phiền não ám trạch
trung,
Thường tu sanh huệ nhựt,
Tà lai phiền não chí.
Chánh lai phiền não trừ,
Tà chánh câu bất dụng,
Thanh tịnh chí vô dư.
Bồ đề bổn tự tánh,
Khởi tâm tức thị vọng,
Tịnh tâm tại vọng trung,
Ðản chánh vô tam chướng,
Thế nhơn nhược tu đạo,
Nhất thiết tận bất
phương.
Thường kiến tự kỷ quá,
Dữ đạo tất tương đương.
Sắc loại tự hữu đạo,
Các bất tương phương
não,
Ly đạo biệt mích đạo,
Chung thân bất kiến đạo.
Ba ba độ nhất sanh,
Ðáo đầu hườn tự áo.
Dục đắc kiến chơn đạo,
Hạnh chánh tức thị đạo.
Tự nhược vô đạo tâm,
Ám hành bất kiến đạo.
Nhược chơn tu đạo nhơn,
Bất kiến thế gian quá,
Nhược kiến tha nhơn phi,
Tự phi khước thị tả,
Tha phi ngã bất phi,
Ngã phi tự hữu quá,
Ðản tự khước phi tâm,
Ðả trừ phiền não phá.
Tắng ái bất quan tâm,
Trường thân lưỡng cước
ngọa.
Dục nghĩ hoá tha nhơn,
Tự tu hữu phương tiện.
Vật linh bỉ hữu nghi,
Tức thị tự tánh hiện.
Phật pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian giác,
Ly thế mích bồ đề,
Cáp như cầu thố giác.
Chánh kiến danh xuất
thế,
Tà kiến danh thế gian,
Tà chánh tận đả khước,
Bồ đề tánh uyển nhiên.
Thử tụng thị đốn giáo,
Diệc danh đại pháp
thuyền,
Mê văn kinh lũy kiếp.
Ngộ tắc sát na gian.
Dịch nghiã:
Thuyết thông lại tâm
thông (1),
Như mặt trời giữa không,
Chỉ truyền pháp kiến
tánh,
Hoằng pháp phá tà tông.
Pháp vốn chẳng đốn tiệm,
Mê ngộ có nhanh chậm,
Pháp môn kiến tánh này,
Kẻ ngu chẳng thể tri.
Thuyết tuy muôn ngàn
lối,
Ðúng lý chỉ là một,
Nhà phiền não đen tối,
Thường nên sanh huệ
nhựt,
Tà khởi phiền não tới,
Chánh đến phiền não trừ,
Tà chánh đều chẳng chấp,
Thanh tịnh đến cùng tột.
Tự tánh vốn bồ đề,
Khởi tâm tức là vọng,
Tịnh tâm ở trong vọng,
Niệm chánh chẳng tam
chướng,
Người đời muốn tu đạo,
Tất cả đều chẳng ngại,
Thường tự thấy lỗi mình,
Với đạo tức tương ưng.
Muôn loài tự có đạo,
Mỗi mỗi chẳng ngại nhau,
Ngoài tâm đi tìm đạo,
Suốt đời chẳng thấy đạo.
Bôn ba qua một đời,
Sau cùng tự áo não.
Muốn được thấy chơn đạo,
Hạnh chánh tức là đạo,
Nếu tự chẳng đạo tâm,
Ðen tối chẳng thấy đạo.
Nếu là người chơn tu,
Chẳng thấy lỗi thế gian,
Nếu thấy lỗi của người,
Trái lại thành tự quấy.
Người quấy ta chẳng
quấy,
Thấy quấy thành tự lỗi.
Hễ bỏ tâm chấp quấy,
Phiền não tự tan rã.
Thương ghét chẳng quan
tâm,
Duỗi thẳng hai chân nằm.
Muốn hoá độ chúng sanh, (2)
Tự phải có phương tiện,
Khiến họ hết nghi ngờ,
Tức là tự tánh hiện.
Phật pháp tại thế gian,
Chẳng rời thế gian giác,
Lià thế tìm bồ đề,
Cũng như tìm sừng thỏ.
Chánh kiến gọi xuất thế,
Tà kiến gọi thế gian,
Tà chánh đều quét sạch,
Tánh bồ đề rõ ràng.
Tụng này là đốn giáo,
Cũng gọi đại pháp
thuyền.
Lúc mê tu nhiều kiếp,
Ngộ chỉ một sát na.
Sư lại nói: Nay ta ở chùa Ðại Phạn
thuyết pháp đốn giáo này, nguyện cho pháp giới chúng sanh nghe được pháp này
liền kiến tánh thành Phật.ế Lúc ấy Vi Sử Quân và tất cả quan chức, đạo tục,
nghe sư thuyết pháp đều được tỉnh ngộ, đảnh lễ tán thán rằng: Lành thay, đâu
ngờ xứ Lãnh Nam lại có Phật ra đời.
GHI CHÚ:
(1) Thuyết thông lại tâm
thông, Như mặt trời giữa không. Thuyết thông chưa chắc là tâm thông, tâm thông
tự nhiên thuyết cũng thông. Vậy thế nào là tâm thông? Trên phù hợp ý Phật, dưới
khế hợp đương cơ mới được gọi là tâm thông, khi tâm đã thông rồi mới có thể
giống như mặt trời giữa hư không. Mặt trời giữa không chẳng có nhờ cậy dính mắc
gì cả, nên chiếu soi khắp nơi chẳng thiếu sót. Nếu mặt trời có nhờ cậy bằng một
sợi chỉ buộc treo lên, thì sợi chỉ ấy sẽ che khuất mặt trời, làm cho sự chiếu
soi của mặt trời có chỗ thiếu sót vậy. Như Giáp Sơn Hoà Thượng ra hoằng pháp,
Tăng hỏi: Thế nào là Pháp thân? Giáp Sơn đáp: Pháp thân chẳng tướng. Hỏi: Thế
nào là Pháp Nhãn? Ðáp: Pháp Nhãn chẳng bệnh. Khi đó có Ðạo Ngô Thiền Sư nghe
xong liền cười, Giáp Sơn xuống toà hỏi Ðạo Ngô rằng: Giáp Sơn vừa trả lời Tăng
này, chắc có chỗ không đúng khiến Thượng Tọa bật cười, xin Thượng Tọa từ bi chỉ
dạy cho. Ðạo Ngô nói: Hoà Thượng ra hoằng pháp chưa có Thầy. Giáp Sơn nói: Nay
xin lễ Thượng Tọa làm Thầy. Ðạo Ngô nói: Thầy của Hoà Thượng là Huê Ðình Thuyền
Tử. Giáp Sơn đến Huê Ðình gặp Thuyền Tử được khai ngộ, trở về nơi cũ hoằng
pháp. Ðạo Ngô lại sai một vị Tăng đến hỏi: Thế nào là Pháp Thân? Giáp Sơn vẫn
đáp rằng: Pháp Thân chẳng tướng. Hỏi: Thế nào là Pháp Nhãn? Ðáp: Pháp Nhãn
chẳng bệnh. Tăng lập lại với Ðạo Ngô. Ðạo Ngô nói: Ông ấy nay đã triệt ngộ. Lời
Giáp Sơn đáp Tăng trước, Ðạo Ngô chê cười cho là thuyết thông tâm chẳng thông;
lời đáp Tăng sau cũng giống như lời đáp trước mà Ðạo Ngô lại tán thán, cho là
tâm thông thuyết thông. Chỗ này chớ nên dùng ý thức để phân biệt; nếu dùng ý
thức tìm hiểu thì chỉ có thể thuyết thông, chẳng thể tâm thông. Muốn tâm thông
cần phải tham ngộ mới được.
(2)Muốn hoá độ chúng
sanh, Tự phải có phương tiện, Khiến họ hết nghi ngờ, Tức là tự
tánh hiện. Hai chữ phương tiện này chẳng phải giống như
những người lạm dụng để cầu thêm danh lợi, hoặc che giấu tội lỗi; cũng chẳng
phải dùng để độ người sơ cơ. Phương tiện ở đây là xuất phát từ Bát Nhã, phải
người kiến tánh mới có Phương tiện này, mà dùng để khiến cho đương cơ từ NGHI đến NGỘ. Từ NGHI đến NGỘ: tùy theo người, từ một
sát na cho đến năm, mười năm không chừng, cũng như: Ngài Huệ Minh vừa nghe, ngộ
liền, Ngài Giáp Sơn, trong vài phút được ngộ, Ngài Pháp Nhãn, một tháng được
ngộ, Tổ Hoài Nhượng, tám năm mới ngộ. Không phải mau ngộ là cao, chậm ngộ là
thấp. Người chứng ngộ mới đoạn dứt được NGHI CĂN (Nguồn gốc nghi ngờ đối
với vạn pháp.)Ðoạn dứt NGHI CĂN tức là KIẾN TÁNH. Nên nói: Tức là tự tánh
hiện (kiến tánh).
Phẩm Nghi Vấn Thứ Ba
Một hôm, Vi Sử Quân vì
Sư thiết hội Trai Tăng. Trai xong Sử Quân mời Sư thăng toà, cùng với quan chức,
dân chúng cung kính lễ bái, hỏi Sư : Ðệ tử nghe Hòa Thượng
thuyết pháp, thật là bất khả tư nghì, nay có một ít nghi vấn, xin Hòa Thượng từ
bi giải thuyết cho.
Sư nói : "Có nghi cứ hỏi, ta
giải đáp cho Sử Quân nói : Cái Pháp mà Hòa Thượng giảng dạy, có phải là tông chỉ
của Tổ Ðạt Ma chăng ? Sư đáp : Phải. Sử Quân nói : Ðệ tử nghe nói : Tổ Ðạt
Ma lúc mới gặp Lương Võ Ðế, vua hỏi : Trẫm suốt đời xây chùa độ Tăng, trai Tăng
bố thí, được công đức gì ? Tổ Ðạt Ma đáp : Thật chẳng công đức. Ðệ tử chưa hiểu
lý này, xin Hòa Thượng chỉ dạy.
Sư nói : Thật chẳng công đức. Chớ
nghi lời của bậc Thánh xưa. Võ Ðế tâm tà, chẳng biết Chánh Pháp. Xây chùa độ
Tăng, trai Tăng bố thí, ấy là cầu phước, chẳng thể đem cái phước ấy cho là công
đức. Công đức ở trong Pháp Thân, chẳng ở tại tu phước. Sư lại nói : Kiến tánh là công, bình
đẳng là đức, niệm niệm vô ngại, thường thấy cái diệu dụng chân thật của tự tánh
gọi là công đức. Trong tâm khiêm tốn là công, ngoài hành lễ phép là đức; tự
tánh kiến lập vạn pháp là công, tâm thể lià niệm là đức; chẳng rời tự tánh là
công, ứng dụng vô nhiễm là đức. Muốn tìm kiếm Pháp Thân của công đức, phải y
theo đây thực hành mới là chơn công đức. Người tu hạnh công đức, tâm chẳng
khinh người, thường hành pháp cung kính. Tâm nếu khinh người, nhơn ngã chẳng
dứt tức là chẳng công, tự mình hư vọng chẳng thật tức là chẳng đức, vì ngã chấp
quá lớn, nên thường khinh bỉ tất cả. Thiện tri thức, niệm niệm chẳng gián đoạn
là công, tâm bình đẳng, hạnh ngay thẳng là đức; tự tu tánh là công, tự tu thân
là đức. Thiện tri thức, công đức phải do tự tánh tự thấy, chẳng phải bố
thí cúng dường mà cầu được, nên phước đức và công đức khác nhau là vậy.Võ Ðế tự
chẳng biết chân lý, đâu phải lỗi của Tổ Sư ! Sử Quân lại hỏi : Ðệ tử thường thấy Tăng
tục niệm Phật A Di Ðà, nguyện sanh Tây Phương, được vãng sanh chăng ? Xin Hoà
Thượng chỉ thị để phá nghiế. Sư nói : Sử Quân hãy nghe đây : Lúc Thế Tôn ở trong
thành Xá Vệ thuyết Kinh Dẫn Hoá Tây Phương, rõ ràng từ đây đến đó chẳng xa. Nếu
nói theo tướng thuyết, tính theo số dặm thì có mười vạn tám ngàn, tức thập ác
tám tà nơi thân; đó là nói xa. Nói xa là vì kẻ hạ căn, nói gần là vì người
thượng trí, người có hai loại, pháp chẳng hai thứ, do mê ngộ có khác nên thấy
có nhanh chậm. Kẻ mê niệm Phật cầu sanh nơi khác, người ngộ tự tin nơi tâm. Cho
nên Phật nói : Tùy nơi tâm tịnh (trong sạch) tức Phật độ tịnh. Sử Quân là người
Ðông Phương, hễ tâm tịnh thì chẳng tạo tội, người Tây Phương tâm nếu chẳng tịnh
cũng có lỗi. Người Ðông Phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh Tây Phương, người
Tây Phương tạo tội cầu sanh phương nào ? Kẻ mê chẳng rõ tự tánh, chẳng biết
tịnh độ trong thân, cầu nguyện nơi Ðông nơi Tây, người ngộ thì ở đâu cũng vậy.
Cho nên Phật nói : Ở bất cứ nơi nào cũng đều an lạc vậy. Sử Quân nếu chẳng khởi ác niệm thì
Tây Phương cách đây chẳng xa, nếu tâm thường khởi ác thì dẫu cho niệm Phật cũng
khó mà vãng sanh. Nay khuyên thiện tri thức, trước nhất phải trừ
thập ác, tức đã đi được mười vạn dặm, sau dứt tám tà, tức đã qua tám ngàn dặm
vậy. Niệm niệm thấy tánh, thực hành bình đẳng và ngay thẳng, đến Tây Phương như
búng ngón tay, liền thấy Di Ðà. Sử Quân chỉ cần tu thập thiện, đâu còn phải
nguyện vãng sanh ! Nếu chẳng dứt thập ác tâm, Phật nào mà đến rước ? Nếu ngộ
được pháp vốn VÔ SANH, thấy Tây Phương chỉ
trong chốc lát, chẳng ngộ tự tâm mà niệm Phật thì con đường vãng sanh xa xôi,
làm sao đến được ! Nay Huệ Năng dời Tây Phương đến với các ngươi, chỉ cần trong
sát na liền thấy trước mắt, các ngươi có muốn thấy chăng ? Ðại chúng đảnh lễ
rằng : Nếu được thấy tại nơi đây, đâu cần cầu nguyện vãng sanh nữa, xin Hoà
Thượng từ bi hiện cõi Tây Phương cho cả thảy đều thấy.
Sư nói : Ðại chúng, cơ thể của
các ngươi là thành, nhãn nhĩ tỷ thiệt thân là cửa, ngoài có năm cửa, trong có
cửa ý (ý căn), tâm là địa, tánh là vua. Vua ngụ nơi tâm địa, tánh còn tức vua
còn, tánh đi vua chẳng còn, tánh còn thân tâm còn, tánh đi thân tâm hoại. Tìm
Phật ở nơi tâm, chớ nên cầu bên ngoài. Tự tâm mê tức chúng sanh, tự tâm giác
ngộ tức Phật, từ bi tức Quán Âm, hỉ xả tức Thế Chí, thanh tịnh tức Thích Ca,
bình đẳng ngay thẳng tức Di Ðà, nhơn ngã là núi Tu Di, tà tâm là nước biển,
phiền não là làn sóng, độc hại là rồng ác, hư vọng là quỷ thần, trần lao là cá
trạch, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh. Thiện tri thức, thường hành
thập thiện, thiên đàng liền đến, trừ được nhơn ngã, núi Tu Di sụp, phá được tà
tâm thì nước biển cạn, chẳng sanh phiền não thì làn sóng lặn, quên bỏ độc hại
thì cá rồng tuyệt. Tự tánh Như Lai trong tâm địa phóng đại quang minh, ngoài
chiếu sáu cửa thanh tịnh, phá hết lục dục chư thiên, tự tánh chiếu soi, bên trong
liền trừ tam độc, các tội địa ngục nhất thời tan rã, trong ngoài sáng tỏ, chẳng
khác Tây Phương, nếu chẳng tu như vậy, Tây Phương làm sao đến được ?
Ðại chúng nghe nói, đều
tự tin sẽ được kiến tánh, thảy đều lễ bái tán thán rằng : Lành thay, nguyện khắp
pháp giới chúng sanh, nghe được pháp này sẽ được từNGHI đến NGỘ.
Sư nói : Thiện tri thức, nếu
muốn tu hành, tại gia cũng được, chẳng do tại chùa. Tại gia tu được như người
Ðông Phương mà tâm thiện, tại chùa chẳng tu như kẻ Tây Phương mà tâm ác, chỉ
cần tâm được thanh tịnh, tức là tự tánh Tây Phương. Sử Quân lại hỏi : Tại gia phải tu như
thế nào ? Xin Hòa Thượng chỉ dạy. Sư nói : Nay ta vì các ngươi
nói bài VÔ TƯỚNG TỤNG, chỉ cần y theo đây mà tu, như
thường ở với ta chẳng khác, nếu chẳng chịu tu, dẫu cho xuống tóc xuất gia, cũng
đâu có ích lợi gì ? Bài tụng rằng :
Tâm bình hà lao trì
giới,
Hạnh trực hà dụng tu
thiền.
Ân tắc thân dưỡng phụ
mẫu,
Nghiã tắc thượng hạ
tương lân.
Nhượng tắc tôn ty hòa
mục,
Nhẫn tắc chúng ác vô
tuyên.
Nhược năng toản mộc thủ
hỏa,
Ứ nê định sinh hồng
liên.
Khổ khẩu tức thị lương
dược,
Nghịch nhĩ tất thị trung
ngôn.
Cải qúa tất sanh trí
huệ,
Hộ đoản tâm nội phi
hiền.
Nhựt dụng thường hành
nhiêu ích,
Thành đạo phi do thí
tiền.
Bồ đề chỉ hướng tâm
mích,
Hà lao hướng ngoại cầu
huyền.
Thính thuyết y thử tu
hành,
Thiên đàng chỉ tại mục
tiền.
Dịch nghiã :
Tâm bình đẳng (bất nhị)
chẳng nhọc trì giới
(tâm địa chẳng quấy tự
tánh giới).
Hạnh ngay thẳng (bất
nhị) đâu
cần tu thiền.
(Hạnh ngay thẳng là công
phu bảo nhậm, ngộ rồi chỉ cần bảo nhậm, khỏi phải tu thiền ).
Báo ân là nuôi dưỡng cha
mẹ,
Nhân nghiã thì già trẻ
thương nhau.
Khiêm nhường thì sang
hèn hoà thuận,
Nhẫn nhục thì việc ác
chẳng sanh.
Nếu công phu miên mật
mãi mãi,
Kẻ ngu độn cũng phải
kiến tánh.
Thuốc đắng hay trừ được
bệnh khổ,
Lời trái tai ắt là trung
ngôn.
Tự sửa quấy sẽ sanh trí
huệ,
Giấu lỗi thì trong tâm
chẳng lành.
Hằng ngày thường lợi ích
chúng sanh,
Thành đạo chẳng do bố
thí tiền.
Bồ đề chỉ ở nơi tâm ngộ.
Ðâu cần hướng ngoại để
cầu huyền.
Nghe xong hãy theo đây
mà tu hành,
Tịnh độ đã ở ngay trước
mắt.
Sư lại nói : Thiện tri thức, cần
phải y theo kệ này tu hành, nhận thấy tự tánh, thẳng đến Phật địa. Pháp chẳng
đợi người, các ngươi hãy đi, ta về Tào Khê, hễ có thắc mắc thì đến hỏi. Lúc ấy
Sử Quân và trong hội các quan chức, thiện nam tín nữ đều được tỉnh ngộ, tín thọ
phụng hành.
Phẩm Ðịnh Huệ Thứ Tư
Sư dạy chúng rằng: Thiện tri thức, pháp môn
này lấy ÐỊNH Huệ làm gốc. Các ngươi chớ
lầm rằng ÐỊNH với Huệ có khác; ÐỊNH Huệ vốn nhất thể, chẳng phải
là hai. Ðịnh là thể của Huệ, Huệ là dụng của Ðịnh, ngay trong lúc huệ có định,
ngay trong lúc định có huệ, thấu được nghiã này tức là định huệ đồng nhau. Các
ngươi học đạo chớ cho là trước phát định sau phát huệ, hay trước huệ sau định
có khác, kiến giải như vậy thành ra pháp có nhị tướng. Miệng tuy nói lành mà
trong tâm chẳng lành, tuy có định huệ mà định huệ chẳng đồng nhau. Nếu tâm
miệng đều lành, trong ngoài nhất thể, tức là định huệ đồng nhau. Tự ngộ tu hành, chẳng
nên tranh biện, nếu tranh giành trước sau thì đồng với kẻ mê, chẳng dứt hơn
thua, lại thêm ngã chấp, chẳng lià được tứ tướng (nhơn, ngã, chúng sanh,
thọ giả).
Thiện tri thức, ÐỊNH Huệ ví như cái gì? Như đèn
và ánh sáng: có đèn thì sáng, không đèn thì tối; đèn là thể của sáng, sáng là
dụng của đèn, tên tuy có hai, thể vốn là một, pháp ÐỊNH Huệ cũng vậy. Sư dạy chúng rằng: Thiện tri thức, nói nhất
hạnh tam muội, là ở tất cả mọi nơi đi đứng nằm ngồi thường hành trực tâm. Kinh
Duy Ma Cật nói: Trực tâm là đạo tràng, trực tâm là tịnh độ. Chớ
nên tâm hạnh quanh co, miệng thì nói trực, nói nhất hạnh tam muội mà chẳng hành
trực tâm. Người hành trực tâm, đối với tất cả pháp chẳng nên chấp trước. Kẻ mê
chấp pháp tướng, chấp nhất hạnh tam muội, cứ nói ngồi yên chẳng động, vọng
chẳng khởi nơi tâm tức là nhất hạnh tam muội; kiến giải như vậy đồng với vô
tình, đó là nhân duyên chướng đạo.
Sư dạy chúng rằng: Thiện tri thức, đạo cần
phải linh động, chớ nên làm cho ngăn trệ. Tâm chẳng trụ pháp thì đạo được linh
động, tâm nếu trụ pháp, gọi là tự trói. Nếu nói ngồi yên chẳng động là đúng,
chỉ như Xá Lợi Phất tĩnh tọa trong rừng lại bị Duy Ma Cật quở. Thiện tri thức,
lại có kẻ dạy người lấy ngồi làm công phu, khán tâm quán tịnh, chẳng khởi chẳng
động, kẻ mê chẳng hiểu, bèn chấp ngồi thành bệnh, nhiều người truyền dạy nhau
như vậy, thật là lầm lỗi lớn!
Sư dạy chúng rằng: Thiện tri thức, CHÁNH GIÁO vốn chẳng đốn tiệm, tánh
người tự có lợi độn, kẻ mê tiệm tu, người ngộ đốn khế. Ðốn tiệm chỉ là giả danh
kiến lập mà thôi, nếu tự nhận được bổn tâm, tự thấy được bổn tánh thì chẳng sai
biệt vậy. Thiện tri thức, pháp môn này xưa nay lập VÔ Niệm làm tông, VÔ TƯỚNG làm
thể, VÔ Trụ làm gốc.VÔ TƯỚNG là ở nơi tướng mà lià tướng.VÔ Niệm là ở nơi niệm mà chẳng
niệm. VÔ
Trụ là bản tánh của con người đối với tất cả sự vật, thiện ác, tốt xấu, kẻ thù,
người thân trên thế gian, cho đến lúc bị người nói xấu, khi dễ, đều cho là
không, chẳng nghĩ trả thù, niệm niệm chẳng nghĩ ngoại cảnh. Nếu niệm trước, niệm sau
và đang niệm, niệm niệm theo cảnh chẳng dứt, gọi là trói buộc, đối với tất cả
pháp niệm niệm chẳng trụ tức là chẳng trói buộc vậy, đây là lấy VÔ Trụ làm gốc.
Thiện tri thức, ngoài
lià tất cả tướng gọi là VÔ TƯỚNG, lià tướng thì pháp thể thanh tịnh, đây
là lấy VÔ TƯỚNG làm thể. Thiện tri thức,
đối với mọi cảnh tâm chẳng nhiễm, trong niệm thường tự lià mọi cảnh, chẳng ở
trên cảnh sanh tâm gọi là VÔ Niệm Nếu là trăm điều
chẳng nghĩ, làm cho niệm tuyệt, một niệm tuyệt liền chết, thọ sanh nơi khác, ấy
là cái lỗi lầm lớn, người học đạo nên xét kỹ! Nếu chẳng hiểu ý Chánh Pháp, tự
lầm còn đỡ, lại khuyên người khác học theo, tự mê chẳng thấy, lại thêm tội phỉ
báng Kinh Phật, vì vậy nên lập VÔ Niệm làm tông.
Thiện tri thức, tại sao
lập VÔ Niệm làm tông? Chỉ vì kẻ
mê miệng nói kiến tánh mà khởi niệm trên cảnh, nơi niệm liền lọt vào tà kiến,
tất cả trần lao vọng tưởng theo đó mà sanh. Tự tánh vốn chẳng một pháp có thể
đắc, nếu có sở đắc, vọng nói tội phước, tức là trần lao tà kiến, nên pháp môn
này lập VÔ Niệm làm tông.
Thiện tri thức, VÔ là Vô
việc gì? Niệm là Niệm vật gì? VÔ là VÔ NHỊ TƯỚNG (Pháp đối đãi), VÔ tất cả tâm trần lao.
Niệm là Niệm CHƠN NHƯ BẢN TÁNH. CHƠN NHƯ là thể của Niệm , Niệm là dụng của
CHƠN NHƯ. Chơn như tự tánh khởi niệm, chẳng do nhãn nhĩ tỷ thiệt năng niệm,
chơn như có tánh cho nên khởi niệm, nếu chơn như không tánh thì nhãn nhĩ sắc
thanh ngay đó liền hoại. Thiện tri thức, chơn như tự tánh khởi niệm, lục căn dù
có kiến văn giác tri mà chẳng nhiễm muôn cảnh, chơn tánh thường tự tại. Nên
Kinh nói: Khéo phân biệt được các pháp tướng mà nơi đệ nhất nghiã thường chẳng
động là vậy.
Phẩm Tọa Thiền Thứ Năm
Sư dạy chúng rằng: Pháp môn này nói TỌA THIỀN vốn chẳng chấp tâm, cũng
chẳng chấp tịnh, cũng chẳng phải là chẳng động. Nếu nói chấp tâm, tâm vốn là
vọng, biết tâm như huyễn cho nên chẳng chấp. Nếu nói chấp tịnh, tự tánh vốn
tịnh, chỉ do vọng niệm che khuất chơn như, nếu chẳng có vọng niệm, tánh tự
thanh tịnh; khởi tâm chấp tịnh, lại sanh vọng tịnh. Vọng chẳng xứ sở, kẻ chấp
là vọng, tịnh chẳng hình tướng, lại lập tướng tịnh cho là công phu; kiến giải
như vậy chướng tự bản tánh, lại bị tịnh trói.
Thiện tri thức, nếu
người tu theo pháp chẳng động, khi thấy mọi người mà chẳng thấy tất cả thị phi,
thiện ác, lỗi lầm của người, tức là tự tánh chẳng động. Thiện tri thức, kẻ mê
thân dù chẳng động, mở miệng thì nói thị phi, tốt xấu, hay dở của người; như
vậy là trái ngược với đạo, nếu chấp tâm tịnh tức là chướng đạo.
Sư dạy chúng rằng: Thiện tri thức, sao gọi
là TỌA
THIỀN? Trong pháp môn này vô chướng, vô ngại, bên ngoài đối với tất cả
cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là TỌA, bên trong thấy tự
tánh chẳng động gọi là THIỀN.
Thiện tri thức, sao gọi là THIỀN ÐỊNH? Bên ngoài lià tướng là THIỀN, bên trong chẳng loạn là ÐỊNH. Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm liền loạn, ngoài nếu lià tướng thì tâm chẳng loạn. Bản tánh tự tịnh tự định, chỉ vì thấy cảnh chấp cảnh thành loạn, nếu người thấy mọi cảnh mà tâm chẳng loạn, đó là CHƠN ÐỊNH vậy. Thiện tri thức, ngoài lià tướng tức THIỀN, trong chẳng loạn tức ÐỊNH, ngoài THIỀN trong ÐỊNH gọi là THIỀN ÐỊNH. Kinh Phạm Võng nói: Bản tánh ta vốn tự thanh tịnh. Thiện tri thức, niệm niệm tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo.
Thiện tri thức, sao gọi là THIỀN ÐỊNH? Bên ngoài lià tướng là THIỀN, bên trong chẳng loạn là ÐỊNH. Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm liền loạn, ngoài nếu lià tướng thì tâm chẳng loạn. Bản tánh tự tịnh tự định, chỉ vì thấy cảnh chấp cảnh thành loạn, nếu người thấy mọi cảnh mà tâm chẳng loạn, đó là CHƠN ÐỊNH vậy. Thiện tri thức, ngoài lià tướng tức THIỀN, trong chẳng loạn tức ÐỊNH, ngoài THIỀN trong ÐỊNH gọi là THIỀN ÐỊNH. Kinh Phạm Võng nói: Bản tánh ta vốn tự thanh tịnh. Thiện tri thức, niệm niệm tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo.
Phẩm Sám Hối Thứ Sáu
Lúc ấy Sư thấy các quan
chức và dân chúng từ Quảng Châu, Thiều Châu các nơi tấp nập đến chùa nghe pháp,
nên thăng tòa dạy chúng rằng:
Các thiện tri thức, việc
này phải ở trong tự tánh mà khởi, bất cứ lúc nào niệm niệm, tự tịnh nơi tâm, tự
tu tự hành, tự thấy Pháp Thân, tự thấy tâm Phật, tự độ tự giới, như vậy mới
chẳng uổng công đến đây. Ðã từ xa đến, gặp nhau nơi đây đều là có duyên. Nay
các ngươi hãy quỳ xuống. Ta vì các ngươi truyền năm phầnHƯƠNG PHÁP THÂN của tự tánh, kế đó thọ VÔ TƯỚNG SÁM Hối. Ðại
chúng cùng quỳ xuống.
Sư nói: Một là GIỚI HƯƠNG: Tức trong tự
tâm chẳng quấy chẳng ác, chẳng ganh tỵ, chẳng tham sân, chẳng cướp hại gọi là
GIỚI HƯƠNG. Hai là ÐỊNH HƯƠNG: Thấy những cảnh tướng thiện ác tự
tâm chẳng loạn, gọi là ÐỊNH HƯƠNG. Ba là Huệ HƯƠNG: Tự tâm vô ngại,
thường dùng trí huệ chiếu soi tự tánh, chẳng tạo điều ác, dù tu nhiều thiện mà
tâm chẳng chấp trước, kính trên mến dưới, thương xót kẻ cô đơn nghèo nàn, gọi
là Huệ HƯƠNG. Bốn là GIẢI THOÁT HƯƠNG: Tự tâm chẳng phan duyên, chẳng
nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự tại vô ngại, gọi là GIẢI THOÁT HƯƠNG. Năm là GIẢI THOÁT TRI KIẾN
HƯƠNG: Tự tâm đã chẳng phan duyên thiện ác, chớ nên
trầm không trệ tịch, phải tu học pháp tối thượng thừa, nhận tự bản tâm, thông
đạt lý Phật, hạ mình để tiếp người, vô nhơn vô ngã, thẳng đến Bồ đề, chơn tánh
chẳng đổi gọi là GIẢI THOÁT TRI KIẾN HƯƠNG.
Thiện tri thức, hương
này mỗi người tự huân tập trong tâm, chớ tìm bên ngoài. Nay vì các ngươi truyền
thọ VÔ
TƯỚNG SÁM Hối, diệt tội tam thế, khiến cho tam nghiệp
thanh tịnh. Thiện tri thức, hãy nói theo ta: Ðệ tử chúng con, từ tiền
niệm, hiện niệm, hậu niệm, niệm niệm chẳng bị ngu mê nhiễm. Tất cả các tội ác
nghiệp ngu mê đã có từ trước, thảy đều sám hối, nguyện nhất thời tan rã, trọn
chẳng khởi nữa. Ðệ tử chúng con, từ tiền niệm, hiện niệm, hậu niệm, niệm niệm
chẳng bị kiêu căng dối trá nhiễm. Tất cả các tội ác nghiệp kiêu căng dối trá đã
có từ trước thảy đều sám hối, nguyện nhất thời tan rã, trọn chẳng khởi nữa. Ðệ
tử chúng con, từ tiền niệm, hiện niệm, hậu niệm, niệm niệm chẳng bị ganh tỵ
nhiễm. Tất cả các tội ác nghiệp ganh tỵ đã có từ trước thảy đều sám hối, nguyện
nhất thời tan rã, trọn chẳng khởi nữa.
Thiện tri thức, trên đây
là VÔ TƯỚNG SÁM Hối. Thế nào là SÁM? Thế nào là Hối? Sám là sám trừ tội
trước, từ trước tất cả các tội ác nghiệp ngu mê, kiêu căng, dối trá, ganh tỵ
thảy đều sám hết, chẳng bao giờ khởi nữa gọi là sám. Hối là hối cải lỗi sau,
tất cả ác nghiệp ngu mê, kiêu căng, dối trá, ganh tỵ... nay đã giác ngộ, đều
cho đoạn dứt, chẳng bao giờ tạo nữa gọi là hối. Phàm phu ngu mê, chỉ biết sám
trừ tội trước, chẳng biết hối cải lỗi sau, vì chẳng hối cải, nên tội trước
chẳng diệt, tội sau lại sanh, tội trước đã chẳng diệt, tội sau lại tiếp tục,
như thế làm sao gọi là SÁM Hối được! Thiện tri thức, đã
sám hối xong, nay vì thiện tri thức phát TỨ HOẰNG thệ nguyện, mọi người phải dùng
chánh tâm để nghe:
Tự tâm chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ,
Tự tâm phiền não vô tận
thệ nguyện dứt,
Tự tánh pháp môn vô
lượng thệ nguyện học,
Tự tánh Phật đạo vô
thượng thệ nguyện thành.
Thiện tri thức, chúng ta
há chẳng nói CHÚNG SANH VÔ BIÊN thệ nguyện ÐỘ sao? Nói như thế, nhưng
chẳng phải là Huệ Năng độ đâu. Thiện tri thức, chúng sanh ở nơi tự tâm, cũng
như tâm tà mê, tâm cuồng vọng, tâm chẳng thiện, tâm ganh tỵ, tâm ác độc...
những thứ tâm kể trên đều là chúng sanh. Mọi người phải tự tánh tự độ, gọi là CHƠN ÐỘ. Sao gọi là tự
tánh tự độ? Tức là tà kiến, phiền não, ngu si trong tâm dùng chánh kiến để độ;
đã có chánh kiến, dùng trí Bát Nhã để phá trừ ngu si mê vọng, tà đến chánh độ,
mê đến ngộ độ, ngu đến trí độ, ác đến thiện độ, chúng sanh mỗi mỗi tự độ, độ
như thế gọi là CHƠN ÐỘ. PHIỀN NÃO VÔ TẬN thệ nguyện DỨT: Tức là đem trí Bát
Nhã của tự tánh, dứt trừ tất cả tư tưởng hư vọng, gọi là CHƠN DỨT. PHÁP MÔN VÔ LƯỢNG thệ nguyện HỌC: Là phải tự thấy tự tánh,
thường hành Chánh Pháp, gọi là CHƠN HỌC. PHẬT ЀO VÔ THƯỢNG thệ nguyện THÀNH: Ðã quyết tâm dùng
công phu, thường hành nơi chơn chánh, lià mê lià giác, thường sanh Bát Nhã, trừ
vọng trừ chơn, liền thấy Phật tánh, tức ngay nơi đó thành Phật đạo, gọi là CHƠN THÀNH.
Thường nghĩ nhớ tu hành
là PHÁT
Nguyện LỰC. Thiện tri thức, đã phát tứ hoằng thệ nguyện xong, nay vì thiện tri
thức truyền VÔ TƯỚNG TAM QUY Y GIỚI.
Thiện tri thức, QUY Y GIÁC, lưỡng túc
tôn, QUY
Y CHÁNH, ly dục tôn, QUY Y TỊNH, chúng trung
tôn. Từ nay trở đi, xưng GIÁC làm Thầy, trọn chẳng quy
y tà ma ngoại đạo, dùng TỰ TÁNH TAM BẢO thường tự chứng minh.
Khuyên các thiện tri thức, nên QUY Y TỰ TÁNH TAM BẢO: Phật tức là GIÁC, Pháp
tức là CHÁNH, Tăng tức là TỊNH. Tự tâm quy y GIÁC thì tà mê chẳng sanh, thiểu
dục tri túc, hay lià tài sắc, gọi là LƯỠNG TÚC TÔN. Tự tâm quy y CHÁNH, niệm
niệm chẳng tà kiến, vì chẳng tà kiến nên chẳng có nhơn ngã, cống cao, tham ái,
chấp trước, gọi là LY Dục TÔN. Tự tâm quy y TỊNH, tự tánh đối với tất cả cảnh
giới trần lao ái dục đều chẳng nhiễm trước, gọi là CHÚNG TRUNG TÔN. Nếu tu hạnh
này là tự quy y. Phàm phu chẳng hiểu, từ sáng đến tối thọ tam quy y, nếu nói
quy y Phật, Phật ở chỗ nào? Nếu chẳng thấy Phật thì dựa vào đâu mà quy y? Nói
lại thành vọng. Thiện tri thức, mọi người hãy xem xét kỹ, chớ lầm dụng tâm,
trong Kinh rõ ràng nói là quy y tự tánh Phật, chẳng có nói quy y tha Phật. Tự
tánh Phật, chẳng quy y thì đâu còn chỗ nào để quy y nữa! Nay đã tự ngộ, mỗi mỗi
đều phải quy y TỰ TÁNH TAM BẢO, bên trong tự sửa tâm tánh, bên ngoài kính mến
mọi người, tức là TỰ QUY Y vậy.
Thiện tri thức, đã quy y
TỰ TÁNH TAM BẢO xong các ngươi chú tâm, nghe ta nói NHẤT THỂ TAM THÂN TỰ
TÁNH PHẬT, khiến các ngươi đều rõ ràng thấy tam thân Phật, tự ngộ tự tánh.
Nay nói theo ta: Nơi tự sắc thân Quy y
THANH TỊNH PHÁP THÂN PHẬT. Nơi tự sắc thân Quy y THIÊN BÁ ỨC HOÁ THÂN PHẬT. Nơi
tự sắc thân Quy y VIÊN MÃN BÁO THÂN PHẬT. Thiện tri thức, sắc thân là nhà trọ,
chẳng thể nói quy y được. Xưa nay tam thân Phật ở trong tự tánh mọi người đều
sẵn có, tại tâm mê nên chẳng thấy tánh bên trong, chỉ hướng ngoại tìm tam thân
Phật mà chẳng thấy tự thân có tam thân Phật. Các ngươi hãy nghe, nay ta khiến
các ngươi ngay nơi tự thân được thấy tự tánh có tam thân Phật; tam thân Phật
này từ tự tánh sanh ra, chẳng từ bên ngoài mà được.
Sao gọi là THANH TỊNH PHÁP THÂN
PHẬT? Người đời tánh vốn thanh tịnh, vạn pháp từ tự tánh sanh khởi. Suy lường
điều ác tức sanh hạnh ác, suy lường điều thiện tức sanh hạnh lành. Như vậy các
pháp ở trong tự tánh như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng; vì
bị mây đen che khuất nên trên sáng dưới tối; thoạt được gió thổi mây tan, trên
dưới đều sáng, vạn tượng đều hiện. Người đời tánh hay phù du lơ lửng như mây
trên trời. Thiện tri thức, trí như mặt trời, huệ như mặt
trăng, trí huệ thường sáng; vì chấp cảnh bên ngoài, nên bị vọng niệm mây đen
che khuất, tự tánh chẳng được sáng tỏ. Nếu gặp được thiện tri
thức, nghe được Chánh Pháp, tự trừ mê vọng, trong ngoài đều sáng, vạn pháp đều
hiện nơi tự tánh: người KIẾN TÁNH cũng vậy. Ðây gọi là THANH TỊNH PHÁP THÂN
PHẬT.
Thiện tri thức, tự tâm
quy y tự tánh tức là quy y CHƠN PHẬT. Tự Quy Y tức là trong tự
tánh trừ sạch những tâm bất thiện, tâm ganh tỵ, tâm quanh co, tâm chấp ngã, tâm
cuồng vọng, tâm khinh mạn, tâm tà kiến, tâm cống cao và tất cả những hạnh bất
thiện. Thường tự thấy lỗi mình, chẳng nói tốt xấu của người, ấy là TỰ QUY Y. Thường phải hạ mình,
cung kính mọi người, tức là KIẾN TÁNH, thông đạt chẳng còn trệ ngại, ấy là TỰ
QUY Y.
Sao gọi là THIÊN BÁ ỨC HOÁ THÂN? Nếu chẳng nghĩ muôn
pháp, tánh vốn như hư không. Một niệm suy lường gọi là biến hoá: Suy lường điều
ác tức hoá ra địa ngục, suy lường việc thiện hoá ra thiên đàng, độc hại hoá ra
rắn rồng, từ bi hoá ra Bồ Tát, trí huệ hoá ra tam thiện đạo, ngu si hoá ra tam
ác đạo. Tự tánh biến hoá rất nhiều, kẻ mê chẳng thể tỉnh giác, niệm niệm khởi
ác, thường đi trên đường ác, hễ nhất niệm hồi tâm hướng thiện, trí huệ liền
sanh, đây gọi là TỰ TÁNH HOÁ THÂN PHẬT.
Sao gọi là VIÊN MÃN BÁO THÂN? Ví
như một ngọn đèn trừ được ngàn năm đen tối, một niệm trí huệ diệt được muôn năm
ngu mê. Chớ nghĩ việc xưa, đã qua thì bất khả đắc, thường nghĩ về sau, niệm
niệm viên tròn sáng tỏ, tự thấy bản tánh, thiện ác dù khác, tánh vốn bất nhị,
tánh bất nhị gọi là thật tánh, ở trong thật tánh chẳng nghĩ thiện ác, đây gọi
là VIÊN MÃN BÁO THÂN PHẬT.
Tự tánh khởi một niệm
ác, liền diệt vạn kiếp thiện nhân, tự tánh khởi một niệm thiện, liền dứt hằng
sa ác nghiệp, thẳng đến Vô Thượng Bồ Ðề. Niệm niệm tự thấy chẳng mất bản niệm
gọi là BÁO THÂN PHẬT. Thiện tri thức, từ Pháp Thân suy
lường tức là HOÁ THÂN PHẬT; niệm niệm tự tánh tự thấy tức là
BÁO THÂN PHẬT; tự ngộ tự tu tự tánh công đức là CHƠN QUY Y. Da thịt này là sắc
thân, sắc thân là nhà trọ, chẳng thể Quy Y được. Hễ ngộ được tự tánh tam thân,
tức nhận được tự tánh Phật. Nay ta thuyết bài VÔ TƯỚNG TỤNG, nếu y theo tụng này tu
hành, ngay đó khiến các ngươi nhiều kiếp ngu mê đều nhất thời tan rã. Tụng
rằng:
Mê nhơn tu phước bất tu
đạo,
Chỉ ngôn tu phước tiện
thị đạo,
Bố thí cúng dường phước
vô biên,
Tâm trung tam ác nguyên
lai tạo,
Nghĩ tương tu phước dục
diệt tội,
Hậu thế đắc phước tội
hườn tại.
Ðản hướng tâm trung trừ
tội duyên;
Các tự tánh trung chơn
sám hối.
Hốt ngộ đại thừa chơn
sám hối,
Trừ tà hành chánh tức vô
tội.
Học đạo thường ư tự tánh
quán,
Tức dữ chư Phật đồng
nhất loại.
Ngô Tổ duy truyền thử
đốn pháp,
Phổ nguyện kiến tánh
đồng nhất thể.
Nhược dục tương lai mích
pháp thân,
Ly chư pháp tướng tâm
trung tẩy.
Nỗ lực tự kiến mạc du
du,
Hậu niệm hốt tuyệt nhất
thế hưu.
Nhược ngộ đại thừa đắc
kiến tánh,
Kiền cung hiệp chưởng
chí tâm cầu.
Dịch nghiã:
Kẻ mê tu phước chẳng tu
đạo,
Chỉ cho tu phước tức là
đạo.
Bố thí cúng dường phước
vô biên,
Trong tâm tam ác vẫn còn
tạo.
Muốn dùng tu phước để
diệt tội,
Kiếp sau được phước tội
vẫn còn.
Nhân duyên tội ác trừ
nơi tâm,
Hướng vào tự tánh chơn
sám hối.
Hoát ngộ đại thừa chơn
sám hối,
Tà dứt hạnh chánh tức vô
tội.
Học đạo thường quán nơi
tự tánh,
Thì với chư Phật đồng một
loại.
Tổ Sư truyền pháp đốn
ngộ này,
Nguyện cùng kiến tánh
đồng nhất thể.
Nếu muốn tương lai ngộ
pháp thân,
Lià các pháp tướng tâm
trong sạch.
Cố gắng tu hành chớ nhởn
nhơ,
Hậu niệm thoạt dứt một
đời tiêu,
Muốn ngộ đại thừa thấy
tự tánh,
Kính lễ Tri Thức chí tâm
cầu. (Cầu
nơi chẳng cầu gọi là chí tâm cầu.)
Sư bảo: Thiện tri thức,
cần phải theo tụng này tu hành, ngay nơi đó được KIẾN TÁNH, dù cách xa ta ngàn
dặm mà thuờng như ở bên cạnh ta, nếu ngay nơi đó chẳng ngộ, dẫu cho đối diện
cũng như cách xa ngàn dặm, uổng công từ xa đến đây. Các ngươi ra về bình yên.
Ðại chúng nghe pháp đều được tỉnh ngộ, hoan hỷ phụng hành.
Phẩm Cơ Duyên Thứ Bẩy
Sư đắc Pháp ở Huỳnh Mai
rồi về làng Tào Hầu tỉnh Thiều Châu, dân chúng chẳng ai biết đến. Lúc ấy có một
nhà nho tên Lưu Chí Lược, đối đãi với Sư rất cung kính, Chí Lược có người cô
xuất gia làm Ni, pháp danh Vô tận Tạng, thường tụng Kinh Ðại Niết Bàn. Sư nghe
qua một lần liền biết diệu nghiã của kinh, nên vì Ni giải thuyết. Ni cầm Kinh
hỏi chữ, Sư nói: Hỏi nghiã thì được, hỏi
chữ thì chẳng biết." Ni nói: Chữ còn chưa biết, làm
sao hiểu nghiã? Sư nói: Diệu lý của chư Phật
chẳng dính dáng với văn tự. Ni ngạc nhiên kính phục, nói khắp các bậc kỳ lão
trong làng: Ðây là người có đạo, rất nên cúng dường. Lúc ấy có cháu chắt của Võ
Hầu đời Ngụy tên Tào Thúc Lương, cùng với dân chúng trong làng tấp nập đến
chiêm ngưỡng kính lễ.
Thời ấy Bảo Lâm Cổ Tự đã
bị hư phế do binh loạn từ cuối đời nhà Tùy, nay xây dựng lại ngôi chùa rồi rước
Sư về ở. Chẳng bao lâu dân chúng đến đông, thành nơi trang nghiêm. Sư ở đấy
được hơn chín tháng, lại bị bọn ác tìm đến, Sư trốn lên núi, bị bọn họ đốt cháy
rừng núi, Sư chen thân ẩn trong kẽ đá được khỏi. Nay trên đá có dấu ngồi kiết
già và dấu vằn y của Sư; người đời sau gọi đá ấy là đá tỵ nạn. Sư nhớ lời dặn
của Ngũ Tổ là phải ẩn nơi hai ấp Hoài, Hội, bèn về đấy ở ẩn.
Tăng Pháp Hải, người ở
Khúc Giang tỉnh Thiều Châu, tham vấn Tổ Sư, hỏi: Thế nào là tức tâm tức
Phật? xin Hoà Thượng chỉ dạy. Sư nói: Niệm trước chẳng sanh
tức tâm, niệm sau chẳng diệt tức Phật; lập tất cả tướng tức tâm, lià tất cả
tướng tức Phật. Nếu ta nói cho đủ thì trọn kiếp cũng chẳng hết,
hãy nghe kệ đây:
Tức tâm danh huệ,
Tức Phật nãi định.
Ðịnh huệ đẳng trì,
Ý trung thanh tịnh.
Ngộ thử pháp môn,
Do như tập tánh
Dụng bổn vô sanh
Song tu thị chánh.
Dịch nghiã:
Tức tâm là huệ,
Tức Phật là định.
Ðịnh huệ song song (đẳng
trì),
Nơi ý thanh tịnh.
Ngộ pháp môn này,
Do tập khí ngươi,
Dụng vốn vô sanh,
Song tu (định hue) là
chánh.
Pháp Hải ngay nơi đó
liền đại ngộ, tán thán bằng kệ rằng:
Tức tâm nguyên thị Phật,
Bất ngộ nhi tự khuất.
Ngã tri định huệ nhân,
Song tu ly chư vật.
Dịch nghiã:
Tức tâm vốn là Phật,
Chẳng ngộ là tự khuất
(oan cho mình),
Ta biết nhân định huệ,
Song tu lià vạn pháp.
Tăng Pháp Ðạt, người
Hồng Châu, 7 tuổi xuất gia, thường tụng Kinh Pháp Hoa, đến lễ Tổ Sư mà đầu
chẳng chấm đất. Sư quở rằng: Ðảnh lễ mà chẳng chấm đất bằng như chẳng lễ, trong
tâm ngươi tất có chất chứa một điều gì, ngày thường tu hạnh gì? Ðáp: Niệm Kinh
Pháp Hoa đã hết ba ngàn bộ. Sư nói: Dẫu cho ngươi tụng đến mười ngàn bộ, nếu
ngộ được ý Kinh mà chẳng tự cho là thù thắng, mới đồng một hạnh với ta. Nay
ngươi tự phụ cho đấy là sự nghiệp mà chẳng biết lỗi, hãy nghe kệ đây:
Lễ bổn chiết mạn tràng,
Ðầu hề bất chí địa?
Hữu ngã tội tức sanh,
Vong công phước vô tỷ.
Dịch nghiã:
Lễ vốn trừ ngã mạn,
Ðầu sao chẳng chấm đất?
Có ngã tội liền sanh,
Quên công, phước vô tận.
Sư lại hỏi: Ngươi tên
gì? Ðáp: Tên là Pháp Ðạt. Sư nói: Ngươi tên Pháp Ðạt, đâu từng đạt pháp. Lại
nói kệ rằng:
Nhữ kim danh Pháp Ðạt,
Cần tụng vị hưu hiết,
Không tụng đản tuần
thanh,
Minh tâm hiệu Bồ Tát.
Nhữ kim hữu duyên cố,
Ngô kim vi nhữ thuyết.
Ðản tính Phật vô ngôn,
Liên hoa tùng khẩu phát.
Dịch nghiã:
Ngươi tên gọi Pháp Ðạt,
Siêng tụng chưa từng
dứt,
Tụng suông chỉ theo
tiếng,
Minh tâm gọi Bồ Tát.
Ngươi nay có nhân duyên,
Ta vì ngươi mà thuyết.
Hễ tin Phật vô ngôn.
(Chớ nên chấp ở ngôn
ngữ. Vô ngôn: Phật thuyết Pháp 49 năm mà tự nói chẳng thuyết một chữ.)
Lời Phật từ miệng
phát.(Chớ nên chấp vào im lặng).
Ðạt nghe kệ xong bèn tạ
lỗi rằng: Từ nay trở đi sẽ khiêm tốn cung kính tất cả. Ðệ tử tụng Kinh Pháp Hoa
mà chưa hiểu nghiã Kinh, tâm thường có nghi, Hoà Thượng trí huệ mênh mông, xin
nói sơ lược nghiã lý của Kinh. Sư nói: Pháp Ðạt, pháp vốn thông đạt, chỉ tại
tâm ngươi chẳng đạt. Kinh vốn chẳng nghi, tâm ngươi tự nghi. Ngươi niệm Kinh
này lấy gì làm tông chỉ? Ðạt nói: Ðệ tử căn tánh ngu độn, xưa nay chỉ
biết y văn niệm tụng, chẳng biết tông chỉ. Sư nói: Ta chẳng biết chữ, ngươi
lấy Kinh tụng thử một bộ, ta sẽ giải thuyết cho. Pháp Ðạt liền lên tiếng tụng
Kinh, đến Phẩm Thí Dụ, Sư nói: Hãy ngừng, Kinh này vốn lấy nhân duyên
xuất thế làm tông chỉ, dù nói nhiều thí dụ cũng chẳng ngoài việc này. Thế nào
là nhân duyên? Kinh nói: Chư
Phật Thế Tôn vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trên đời. Một đại sự tức là TRI KIẾN PHẬT vậy. Người đời ngoài mê
chấp tướng, trong mê chấp không, nếu được ở nơi tướng mà lià tướng, nơi không
mà lià không, tức là trong ngoài chẳng mê. Nếu ngộ pháp này, ngay trong một
niệm tâm liền sáng tỏ, ấy là khai ngộ TRI KIẾN PHẬT vậy. Phật
tức là GIÁC, chia làm bốn cửa: Khai GIÁC TRI KIẾN, Thị GIÁC TRI KIẾN, Ngộ GIÁC
TRI KIẾN, Nhập GIÁC TRI KIẾN. Nếu nghe khai thị liền được ngộ nhập tức là GIÁC
TRI KIẾN, do đó bổn lai chơn tánh liền được hiển hiện.
Ngươi nên cẩn thận, chớ hiểu lầm ý Kinh, nghe nói: khai thị ngộ nhập bèn cho là
tri kiến của Phật (tha Phật) chẳng có phần mình; nếu hiểu như thế là phỉ báng
Kinh Phật vậy. Ðã nói là Phật thì TRI KIẾN PHẬT đã sẵn đầy đủ, đâu cần phải
khai thị nữa! Ngươi phải tin rằng, nói tri kiến Phật là ở nơi tự tâm của ngươi,
chẳng phải Phật bên ngoài. Bởi vì tất cả chúng sanh tự che khuất ánh sáng của
tự tánh, tham ái cảnh trần, phan duyên bên ngoài, nhiễu loạn bên trong, cam
chịu trần lao hành hạ, làm nhọc Ðức Thế Tôn từ chánh định ra, khổ tâm khuyên
dạy bằng đủ mọi cách, khiến ngừng nghỉ các duyên, chớ nên hướng ngoại tìm cầu,
tức chẳng khác với Phật, nên nói là khai tri kiến Phật. Ta cũng khuyên tất cả
mọi người nên thường khai tri kiến Phật nơi tự tâm. Người đời tâm tà, ngu mê
tạo tội, miệng lành tâm ác, tham sân ganh tỵ, gièm siểm, nịnh bợ, ngã mạn, hiếp
người, hại vật, tự khai tri kiến chúng sanh. Nếu được trong tâm ngay thẳng,
thường sanh trí huệ chiếu soi tự tâm, dứt ác làm lành, tức là tự khai tri kiến
Phật vậy. Ngươi nên niệm niệm khai tri kiến Phật, chớ khai tri kiến chúng sanh.
Khai tri kiến Phật tức là xuất thế, khai tri kiến chúng sanh tức là thế gian.
Nếu ngươi chỉ luôn luôn lấy công phu tụng niệm làm thời khoá, chẳng khác nào
con mao ngưu tiếc đuôi! (con mao ngưu có đuôi rất đẹp, gặp thợ săn chỉ giấu
đuôi mà không giấu đầu.) Ðạt nói: Nếu như vậy tức là chỉ
cần hiểu nghiã, chẳng cần tụng kinh sao? Sư nói: Kinh có lỗi gì,
đâu làm chướng niệm của ngươi! Chỉ vì mê ngộ tại người, tổn ích do mình mà
thôi. Miệng niệm tâm hành tức là chuyển được Kinh, miệng niệm tâm chẳng hành
tức bị Kinh chuyển. Hãy nghe kệ đây:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa.
Tụng Kinh cữu bất minh,
Dữ nghiã tác thù gia.
Vô niệm niệm tức chánh,
Hữu niệm niệm thành tà.
Hữu vô câu bất kế,
Trường ngự bạch ngưu xa.
Dịch nghiã:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa.
Tụng lâu chẳng hiểu
thấu,
Nghịch ý nghiã trong
Kinh.
Vô niệm (không chấp
thật) niệm tức chánh,
Hữu niệm (có chấp thật)
niệm thành tà.
Hữu vô đều chẳng chấp,
Tự tánh luôn luôn hiện.
Ðạt nghe xong thoạt chảy
nước mắt, ngay nơi đó khai ngộ, nói với Sư: Pháp Ðạt xưa nay thật chưa từng
chuyển Pháp Hoa, lại bị Pháp Hoa chuyển. Lại hỏi: Kinh nói: Chư Ðại Thanh Văn cho
đến Bồ Tát, tất cả tận tâm suy lường đều chẳng thể đo lường được trí Phật. Nay
khiến phàm phu chỉ ngộ được tự tâm thì gọi là tri kiến Phật, tự mình đã chẳng
phải là bậc thượng căn, nên chẳng khỏi nghi ngờ. Kinh lại nói ba loại xe: xe
nai, xe dê và xe trâu, có gì khác biệt? Xin Hoà Thượng chỉ dạy thêm. Sư nói: Ý Kinh rõ ràng minh
bạch, ngươi tự mê trái. Người tam thừa chẳng thể suy lường được trí Phật, lỗi
tại suy lường vậy. Dẫu cho ngươi tận sức suy lường, chỉ là càng thêm xa xôi mà
thôi. Phật thuyết pháp vốn vì phàm phu mà thuyết, chẳng vì Phật thuyết; lý này
nếu chẳng chịu tin thì cũng như năm ngàn người từ trên hội Pháp Hoa lui ra, mà
chẳng biết đã ngồi sẵn trên xe trâu (Phật tánh vốn sẵn có), mà lại tìm kiếm ba
xe (tam thừa) bên ngoài. Huống trong Kinh rõ ràng chỉ ra cho người: chỉ duy
nhất một Phật thừa, chẳng còn thừa nào khác, nói có hai thừa ba thừa, cho đến
vô số phương tiện, mọi thứ nhân duyên, lời nói thí dụ, pháp ấy đều vì nhất Phật
thừa mà tạm lập. Ngươi sao chẳng tỉnh ngộ, nói ba xe là giả thiết, vì đời xưa
mà nói, nhất thừa là thật, vì đời nay mà nói; chỉ bảo ngươi bỏ giả trở về thật,
trở về thật rồi thật cũng chẳng chấp. Phải biết tất cả châu báu tài vật đều
thuộc về ngươi, do ngươi thọ dụng, chẳng phải là của cha, cũng chẳng phải là
của con, cũng chẳng khởi dụng tưởng, ấy gọi là trì Kinh Pháp Hoa, trì Kinh như
thế từ kiếp này sang kiếp khác tay chẳng rời Kinh, từ sáng đến tối, chẳng dứt
tụng niệm vậy.ế Pháp Ðạt được Sư khai thị, mừng rỡ vô cùng, làm kệ tán thán
rằng:
Kinh tụng tam thiên bộ,
Tào Khê nhất cú vong.
Vị minh xuất thế chỉ,
Ninh hiết lụy sanh
cuồng.
Dương lộc ngưu quyền
thiết,
Sơ trung hậu thiện
dương.
Thùy tri hoả trạch nội,
Nguyên thị pháp trung
vương.
Dịch nghiã:
Tụng Kinh ba ngàn bộ,
Bị Tổ một lời tiêu.
Chưa thấu đạo xuất thế,
Sao dứt lụy kiếp mê.
Dê, nai, trâu giả thiết
(dê, nai, trâu = tiểu, trung, đại thừa).
Ba đoạn thiện quét sạch
(1).
Ai ngờ trong nhà lửa,
Vốn là tự tánh Phật.
Sư nói: Ngươi sau này
mới được gọi là ông Tăng tụng Kinh vậy. Pháp Ðạt từ đó lãnh hội huyền chỉ, cũng
chẳng dứt tụng Kinh.
GHI CHÚ:
(1) Ba đoạn thiện quét sạch: Mới phát thiện tâm là sơ
thiện, chẳng chấp thiện tâm là trung thiện, không trụ nơi chẳng chấp là hậu
thiện, luôn cả cái tri giải biết về sự không trụ nơi chẳng chấp cũng tiêu là
quét sạch.
Tăng Trí Thông, người ở
An Phong tỉnh Thọ Châu, xem Kinh Lăng Già hơn ngàn lần mà chẳng hiểu thế nào là
tam thân tứ trí, đến lễ Sư xin giải thuyết cho, Sư nói: Tam thân ấy là: Thanh
Tịnh Pháp Thân, tức là tánh của ngươi; Viên Mãn Báo Thân là trí của ngươi;
Thiên Bá Ức Hoá Thân là hạnh của ngươi vậy. Nếu lià bản tánh mà nói tam thân,
ấy gọi là có thân mà vô trí, nếu ngộ được tam thân vốn chẳng tự tánh, tức gọi
là tứ trí bồ đề. Hãy nghe kệ đây:
Tự tánh cụ tam thân,
Phát minh thành tứ trí.
Bất ly kiến văn duyên,
Siêu nhiên đăng Phật
địa.
Ngô kim vi nhữ thuyết.
Ðế tín vĩnh vô mê.
Mạc học trì cầu giả,
Chung nhựt thuyết bồ đề.
Dịch nghiã:
Tự tánh đủ tam thân
Khai ngộ thành tứ trí.
Chẳng lià sự thấy nghe,
Ðốn siêu địa vị Phật.
Ta nay vì ngươi thuyết,
Tin chắc trọn chẳng mê.
Chớ học kẻ tìm cầu,
Suốt ngày nói bồ đề.
Thông lại hỏi: Cái nghiã
của tứ trí có thể nghe được chăng?
Sư nói: Ðã hiểu tam thân, tức rõ
tứ trí, sao còn hỏi nữa! Nếu lià tam thân mà nói tứ trí, ấy gọi là có trí mà
chẳng có thân, dẫu cho có trí cũng trở thành vô trí. Lại nói kệ rằng:
Ðại viên cảnh trí tánh
thanh tịnh,
Bình đẳng tánh trí tâm
vô bệnh.
Diệu quan sát trí kiến
phi công,
Thành sở tác trí đồng
viên cảnh.
Ngũ bát lục thất quả
nhân chuyển,
Ðản dụng danh ngôn vô
thật tánh.
Nhược kim chuyển xứ bất
lưu tình,
Phiền hưng vĩnh xứ Na
Già định.
Dịch nghiã:
Ðại viên cảnh trí tánh
thanh tịnh,
Bình đẳng tánh trí tâm
chẳng bệnh.
Diệu quan sát trí chẳng
tác ý. (Sự thấy của diệu quan sát trí chẳng cần tác ý)
Thành sở tác trí đồng
viên cảnh.
Ngũ, bát, lục, thất quả
nhân chuyển,
Chỉ dùng tên gọi chẳng
thật tánh.
Nếu ngay nơi chuyển
chẳng dính mắc,
Ở chỗ náo động cũng đại
định.
Như thế là chuyển thức
thành trí.
Trong giáo môn chuyển
tiền ngũ thức làm Thành Sở Tác Trí; chuyển thức thứ sáu thành Diệu Quan Sát
Trí, chuyển thức thứ bảy thành Bình Ðẳng Tánh Trí, chuyển thức thứ tám thành
Ðại Viên Cảnh Trí. Dù thức thứ sáu, bảy là trong nhân chuyển, thức thứ năm, tám
là trên qủa chuyển, nhưng chỉ chuyển cái tên gọi mà chẳng chuyển cái thể vậy.
Trí Thông đốn ngộ tánh trí, bèn trình kệ rằng:
Tam thân nguyên ngã thể,
Tứ trí bổn tâm minh,
Thân trí dung vô ngại,
Ứng vật nhậm tùy hình.
Khởi tu giai vọng động,
Thủ trụ phi chơn tinh.
Diệu chỉ nhân sư hiểu,
Chung vong nhiễm ô danh.
Dịch nghiã:
Thể ta sẵn tam thân,
Bản tâm đủ tứ trí.
Thân trí dung lẫn nhau,
Tiếp vật tùy cơ ứng.
Mống tâm tu là vọng,
Giữ yên cũng chẳng chơn.
Nhờ Sư thấu diệu chỉ,
Chẳng còn kẹt danh
tướng.
Tăng Trí Thường, người ở
Quí Khê tỉnh Tín Châu, xuất gia lúc còn nhỏ tuổi, quyết chí cầu kiến tánh. Một
hôm đến tham lễ, Sư hỏi: Ngươi từ đâu đến, muốn
cầu việc gì? Ðáp: Ðệ tử gần đây đến núi
Bạch Phong ở Hồng Châu lễ Hoà Thượng Ðại Thông, nhờ chỉ dạy cái diệu nghiã kiến
tánh thành Phật, nhưng chưa hết nghi ngờ, nên từ xa đến đảnh lễ, mong Hoà
Thượng khai thị. Sư hỏi: Hoà Thượng Ðại Thông nói thế nào? Ngươi
thử nói xem. Ðáp: Trí Thường đến đó trải qua ba tháng chưa
được chỉ dạy, trong lòng tha thiết vì Pháp, nên một hôm vào trượng thất hỏi Thế
nào là bản tâm bản tánh của Trí Thường? Hòa Thượng hỏi: Ngươi
thấy hư không chăng? Ðáp: Thấy. Hỏi: Ngươi thấy hư không
có tướng mạo chăng? Ðáp: Hư không vô hình đâu có tướng mạo! Hòa Thượng nói: Bản tánh
của ngươi cũng như hư không, chẳng có một vật để thấy gọi là chánh kiến, chẳng
có một vật để biết gọi là chơn tri, chẳng có xanh vàng dài ngắn, chỉ thấy bổn
nguyên thanh tịnh, giác thể sáng tròn, gọi là kiến tánh thành Phật, cũng gọi là
tri kiến của Như Lai. Ðệ tử dù nghe nói như vậy mà tâm còn chưa lãnh hội, xin
Hoà Thượng khai thị. Sư nói: Cái thuyết của Ðại Thông vẫn còn tri
kiến nên khiến ngươi chẳng lãnh hội. Nay ta cho ngươi một bài kệ:
Bất kiến nhất pháp tồn
vô kiến,
Ðại tự phù vân giá nhựt
diện,
Bất tri nhất pháp thủ
không tri,
Hườn như thái hư sanh
thiểm điện.
Thử chi tri kiến miết
nhiên hưng,
Thố nhận hà tằng giải
phương tiện.
Nhữ đương nhất niệm tự
tri phi,
Tự kỷ linh quang thường
hiển hiện.
Dịch nghiã:
Chẳng thấy một pháp thành
vô kiến,
Như mây đen che khuất
mặt trời.
Chẳng biết một pháp
thành vô tri,
Lại như hư không sanh
điện chớp.
Như thế vẫn còn chấp tri
kiến,
Nhận lầm chưa hiểu thấu
phương tiện,
Ngươi phải trong niệm tự
biết quấy,
Ánh sáng tự tánh thường
hiển hiện.
Trí Thường nghe xong
hoát nhiên tâm ngộ, bèn nói kệ rằng:
Vô đoan khởi tri
kiến,Trước tướng cầu bồ đề.
Tình tồn nhất niệm ngộ.
Ninh việt tích thời mê.
Tự tánh giác nguyên thể,
Tùy chiếu uổng thiên
lưu.
Bất nhập Tổ Sư thất,
Mang nhiên thú lưỡng
đầu.
Dịch nghiã:
Khi không khởi tri kiến,
Chấp tướng cầu Bồ đề.
Tình chấp một niệm ngộ,
Khó siêu nhiều kiếp mê.
Bản thể tự tánh giác,
Tùy chiếu vọng lưu
chuyển.
Chẳng vào thất Tổ sư,
Si mê chạy hai đầu. (Hai đầu: nhị biên, tức
là biên kiến).
Một hôm Trí Thường hỏi
Sư: Phật thuyết pháp tam thừa, lại thuyết tối thượng thừa là thế nào? Ðệ tử
chưa rõ, xin Thầy dạy bảo. Sư nói: Ngươi chỉ nên tự xét bản
tâm, chớ chấp trước pháp tướng bên ngoài, pháp chẳng bốn thừa, tâm ngươi tự có
sai biệt: Thấy nghe tụng niệm là tiểu thừa; ngộ pháp hiểu nghiã là trung thừa;
y pháp tu hành là đại thừa; vạn pháp thông đạt, vạn pháp đầy đủ, tất cả chẳng
nhiễm, lià các pháp tướng, trọn vô sở đắc, gọi là tối thượng thừa. Thừa nghiã là hành,
chẳng ở nơi tranh biện, ngươi nên tự tu, chớ hỏi ta vậy, trong bất cứ lúc nào,
tự tánh tự như như. Trí Thường lễ tạ, làm thị giả trọn đời Sư.
Tăng Chí Ðạo, người Nam
Hải tỉnh Quảng Châu, đến xin chỉ dạy: Ðệ tử từ lúc xuất gia đến nay, xem Kinh
Niết Bàn đã hơn mười năm nhưng chưa rõ đại ý, xin Hoà Thượng chỉ dạy. Sư hỏi: Ngươi chưa rõ chỗ nào?
Chí Ðạo nói: Các hạnh vô thường là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt xong, tịch
diệt làm vui (lạc đức). Ðệ tử nghi ngờ chỗ nầy. Sư hỏi: Ngươi nghi ngờ
cái gì? Ðáp: Tất cả chúng sanh có hai thân, gọi là sắc
thân và pháp thân. Sắc thân vô thường, có sanh có diệt, pháp thân có thường,
chẳng tri chẳng giác. Kinh nói sanh diệt diệt xong, tịch diệt làm vui, chẳng
biết thân nào tịch diệt, thân nào được vui? Nếu nói sắc thân được vui, sắc thân
lúc diệt thì tứ đại tan rã, toàn thể là khổ, khổ chẳng thể nói là vui. Nếu pháp
thân tịch diệt thì đồng như cây cỏ ngói đá, ai mà được vui? Lại pháp tánh là
cái thể của sanh diệt, ngũ uẩn là dụng của sanh diệt, một thể năm dụng, sanh
diệt là thường, sanh thì từ thể khởi dụng, diệt thì nhiếp dụng trở về thể. Nếu
cho sanh nữa tức là loài hữu tình chẳng đoạn chẳng diệt; nếu chẳng cho sanh nữa
thì vĩnh viễn tịch diệt, đồng với loài vô tình, như thế thì tất cả các pháp đều
bị Niết Bàn ngăn cấm, sanh còn chẳng được, có gì là vui? Sư nói: Ngươi là Phật tử, sao
lại học tà kiến ngoại đạo, chấp đoạn chấp thường mà luận bàn pháp tối thượng
thừa! Theo lời ngươi nói thì ngoài sắc thân lại có pháp thân, lià sanh diệt cầu
nơi tịch diệt, lại cho thường đức, lạc đức của Niết Bàn là có thân để thọ dụng,
ấy đều là mê chấp và ham tiếc sanh tử, đam mê sự vui của thế gian. Ngươi nay
nên biết, Phật vì tất cả người mê, nhận lầm ngũ uẩn hoà hợp là tướng tự thể,
lầm cho tất cả pháp là tướng ngoại trần, tham sống sợ chết, niệm niệm trôi lăn
trong lục đạo, chẳng biết đều như mộng huyễn hư giả, uổng chịu luân hồi, đem
thường đức, lạc đức của Niết Bàn trở thành tướng khổ, suốt ngày tìm cầu. Phật
vì thương xót cho những người này, nên khai thị chơn lạc của Niết Bàn, sát na
chẳng có tướng sanh, sát na chẳng có tướng diệt, cũng chẳng có sanh diệt để
diệt, ấy tức là tịch diệt hiện tiền. Ðang lúc hiện tiền, cũng chẳng có số lượng
hiện tiền, nghiã là chẳng có một tí khái niệm nào về không gian, thời gian, và
số lượng của tịch diệt hiện tiền, mới gọi là thường đức, lạc đức, nghiã là chơn
vui. Vui này chẳng có kẻ thọ dụng, cũng chẳng có kẻ không thọ dụng, há có cái
tên gọi một thể năm dụngế sao! Huống là còn nói Niết Bàn ngăn cấm các pháp
khiến cho chẳng sanh, ấy là phỉ báng Phật pháp. Hãy nghe kệ đây:
Vô thượng Ðại Niết Bàn,
Viên minh thường tịch
chiếu.
Phàm ngu vị chi tử,
Ngoại đạo chấp vi đoạn.
Mục dĩ vi vô tác.
Tận thuộc tình sở kế,
Lục thập nhị kiến bản.
Vọng lập hư giả danh,
Hà vi chơn thật nghiã.
Duy hữu quá lượng nhơn,
Thông đạt vô thủ xả.
Dĩ tri ngũ uẩn pháp,
Cập dỉ uẩn trung ngã,
Ngoại hiện chúng sắc
tượng,
Nhất nhất âm thanh
tướng,
Bình đẳng như mộng
huyễn,
Bất khởi phàm thánh
kiến,
Bất tác Niết Bàn giải,
Nhị biên tam tế đoạn.
Thường ứng chư căn dụng,
Nhi bất khởi dụng tưởng.
Phân biệt nhất thiết
pháp,
Bất khởi phân biệt
tưởng.
Kiếp hỏa thiêu hải để,
Phong cổ sơn tương kích.
Chơn thường tịch diệt
lạc,
Niết Bàn tướng như thị.
Ngô kim cưỡng ngôn
thuyết,
Linh nhữ xã tà kiến.
Nhữ vật tuỳ ngôn giải,
Hứa nhữ tri thiểu phần.
Dịch nghiã:
Vô thượng đại Niết Bàn,
Sáng tròn thường tịch
chiếu,
Phàm phu gọi là chết,
Ngoại đạo chấp đoạn
diệt.
Những người tu nhị thừa,
Cho đó là vô tác.
Thảy đều do tình thức,
Sáu mươi hai kiến chấp.
(1)
Vọng lập tên hư giả,
Ðâu phải nghiã chơn
thật.
Chỉ có người kiến tánh,
Thông đạt chẳng lấy bỏ,
Vì biết pháp ngũ uẩn.
Với cái ngã trong uẩn,
Cả hiện tượng thế giới,
Mỗi sắc tướng âm thanh,
Bình đẳng như mộng
huyễn,
Chẳng phân biệt thánh
phàm,
Chẳng cho là Niết Bàn.
Nhị biên tam tế dứt.
(Nhị biên: đối đãi biên kiến; tam tế: quá khứ hiện tại, vị lai).
Thường ứng các căn dụng,
(2)
Mà chẳng khởi dụng
tưởng,
Phân biệt tất cả pháp,
(3)
Chẳng khởi phân biệt
tưởng.
Niết Bàn vốn phi vật,
Lửa gió đụng chẳng được.
Chơn vui thường tịch
diệt,
Tướng Niết Bàn như thế,
Nay ta gượng nói ra,
Khiến ngươi bỏ tà kiến.
Chớ hiểu theo lời nói,
Mới cho biết ít phần.
Chí Ðạo nghe xong đại
ngộ, vui mừng đảnh lễ lui ra.
GHI CHÚ :
(1) 62 kiến chấp: Tứ cú
x ngũ uẩn = 20, 20 x tam tế = 60, 60 + thêm Hữu và Vô (nguồn gốc của tất cả nhị
biên đối đãi) = 62. Tất cả kiến chấp đều không ở ngoài 62 kiến chấp này.
(2) Thường ứng các căn
dụng, mà chẳng khởi dụng tưởng: Thường ứng là tả sự dụng của tự tánh chẳng tác
ý, như bóng hiện trong gương, luôn luôn như thế. Ví như dùng cơm chỉ là dùng
cơm, chẳng có năng sở, nên nói Thường ứng các căn dụng, mà chẳng khởi dụng
tưởng. Còn dụng tưởng thì có tác ý, nên có năng sở, cho ta là năng dùng, cơm là
sở dùng.
(3) Phân biệt tất cả
pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng: Phân biệt tất cả pháp mà chẳng tác ý ví như
cơm chỉ là cơm, nước chỉ là nước, còn phân biệt tưởng là có tác ý, nên có cơm
ngon cơm dở, nước trong nước đục.
Hành Tư Thiền Sư, họ
Lưu, sanh ở An Thành, tỉnh Kiết Châu. Nghe nói Tào Khê giáo pháp thịnh hành,
bèn đến tham lễ, hỏi: Nên làm việc gì để khỏi lọt vào giai cấp? Sư hỏi: Ngươi đã từng
làm việc gì? Ðáp: Thánh đế cũng chẳng làm. Sư hỏi: Lọt vào giai cấp nào? Ðáp: Thánh đế còn chẳng làm,
giai cấp nào mà có! Sư rất trọng, cho là pháp khí, cho làm quản chúng. Một hôm Sư nói: Ngươi nên hoá độ một
nơi, chớ cho đoạn dứt giáo pháp đốn ngộ này. Hành Tư Thiền Sư đã đắc pháp, bèn
về núi Thanh Nguyên ở Kiết Châu hoằng pháp, sau được vua sắc phong, hiệu là Hoằng Tế Thiền Sư.
Hoài Nhượng Thiền Sư, họ
Ðỗ ở Kim Châu. Lúc ban đầu đến lễ An Quốc Sư ở Tung Sơn, An Quốc Sư sai đến Tào
Khê tham vấn. Nhượng đến lễ bái. Sư hỏi:Từ đâu đến? Ðáp: Tung Sơn. Sư hỏi:Cái vật gì mà đến như vậy? Nhượng trả lời
chẳng được, nổi nghi tình trải qua tám năm, sau nói với Sư: Nói tựa như một vật
thì chẳng đúng. Sư hỏi: Còn có thể tu chứng chăng? Ðáp: Tu chứng thì chẳng
phải không, ô nhiễm thì chẳng thể được. Sư ấn chứng rằng: Chỉ cái chẳng ô nhiễm
này chư Phật đều hộ niệm, ngươi đã như vậy, ta cũng như vậy. Nhượng hoát nhiên
đại ngộ, bèn làm thị giả bên Sư mười lăm năm, ngày càng thấu triệt huyền chỉ
thâm sâu. Sau đến núi Nam Nhạc, rộng truyền Thiền Tông, được vua sắc phong,
hiệu Ðại
Huệ Thiền Sư.
Vĩnh Gia Huyền Giác
Thiền Sư, họ Ðới quê ở Ôn Châu. Thuở nhỏ tu học Kinh Luận, chuyên về pháp môn
chỉ quán của Thiên Thai Tông, nhân xem Kinh Duy Ma Cật phát minh tâm địa (kiến
tánh). Bỗng gặp đệ tử của Sư là Huyền Sách đến thăm, luận đàm với nhau; thấy
lời nói của Huyền Giác khế hợp với Chư Tổ, Huyền Sách hỏi: Thượng Tọa đắc pháp nơi
Thầy nào? Ðáp: Tôi nghe giảng Kinh Luận Ðại Thừa, mỗi mỗi
đều có Thầy truyền thừa, sau xem Kinh Duy Ma Cật ngộ tự tâm Phật, nhưng chưa có
Thầy ấn chứng. Huyền Sách nói: Trước thời Phật Oai Âm
Vương thì được, sau thời Phật Oai Âm Vương, không Thầy mà tự ngộ, ấy đều là
thiên nhiên ngoại đạo. Giác nói: Vậy xin nhờ Thượng Tọa vì tôi ấn
chứng. Sách nói: Lời tôi chẳng đáng kể, ở Tào Khê nay có Lục Tổ Ðại Sư, các nơi
đều tụ tập đến đó để thọ pháp, hễ đi thì cùng nhau đi. Huyền Giác bèn cùng với
Huyền Sách đến tham vấn. Khi đến gặp Sư, Huyền Giác đi nhiễu ba vòng rồi đứng
lại chống tích trượng. Sư nói: Bậc Sa môn phải đầy đủ ba ngàn oai nghi,
tám vạn tế hạnh, Ðại Ðức từ đâu đến mà sanh đại ngã mạn! Giác đáp: Sanh tử việc
lớn, vô thường nhanh chóng.Sư nói: Sao chẳng thể cứu (tham
cứu) cái pháp vô sanh, liễu ngộ cái chẳng nhanh chóng ấy ư? Ðáp: Thể tức vô sanh, liễu vốn
chẳng chóng. Sư bèn ấn chứng: Ðúng thế, đúng thế! Lúc bấy giờ Huyền Giác mới
trang nghiêm lễ bái, giây lát sau liền từ giã. Sư nói: Sao về chóng
thế? Ðáp:
Tự vốn chẳng động, há có chóng sao?"Sư hỏi: Ai biết chẳng động? Ðáp: Hoà Thượng tự sanh
phân biệt. Sư nói: Ngươi thật được ý vô
sanh. Ðáp:
Vô sanh há có ý sao? Sư hỏi: Không ý ai biết phân
biệt?Ðáp: Phân biệt cũng chẳng tác ý. Sư nói: Lành thay! Hãy ở lại một
đêm. Người thời ấy tôn Huyền Giác là Nhất Túc Giác. Về sau Giác soạn bài Chứng
Ðạo Ca thịnh hành khắp thế gian. Sau được sắc phong là Vô Tướng Ðại Sư, người
đời tôn là Chơn Giác.
Thiền Giả Trí Hoàng,
tham học với Ngũ Tổ, tự cho mình đã được chánh thọ (chánh định), bèn chấp ngồi
mãi trong am hơn hai mươi năm. Ðệ tử của Sư là Huyền Sách hành cước đến Hà Bắc,
nghe tên Trí Hoàng, liền đến am hỏi thăm. Ông ở đây làm gì? Hoàng nói: Nhập
định. Sách hỏi: Ông nói nhập định, là có tâm nhập hay là không tâm nhập? Nếu
nói không tâm nhập thì tất cả loài vô tình, cây cối ngói đá đều phải được định;
nếu nói có tâm nhập thì tất cả loài hữu tình cũng đều được định. Hoàng nói: Ta
đang lúc nhập định chẳng thấy có cái tâm CÓ và KHÔNG. Sách nói: Chẳng thấy có
cái tâm CÓ và KHÔNG tức là thường định, đâu có xuất nhập? Hễ có xuất nhập thì
chẳng phải đại định. Hoàng không trả lời được, một lúc sau mới hỏi: Thượng Tọa
nối pháp ai? Sách nói: Thầy tôi là Tào Khê Lục Tổ Ðại Sư. Hoàng hỏi: Lục Tổ lấy gì làm thiền
định? Sách nói: thầy tôi nói: tự tánh huyền diệu trạm nhiên, viên tròn tịch
diệt, thể dụng như như, ngũ uẩn vốn không, lục trần phi thật, chẳng xuất chẳng
nhập, chẳng định chẳng loạn, tánh thiền vô trụ, chẳng trụ nơi thiền tịch, tánh
thiền vô sanh, chẳng khởi thiền tưởng (chẳng tác ý cho là thiền), tâm như hư
không, cũng chẳng có cái số lượng của hư không. Hoàng nghe nói như vậy bèn đến
lễ Sư. Sư hỏi: Thượng Tọa từ đâu đến? Hoàng thuật lại
nhân duyên gặp Huyền Sách. Sư nói: Thật đúng như Huyền Sách nói. Ngươi hễ tâm như hư
không, chẳng chấp vào không, ứng dụng vô ngại, động tịnh vô tâm (chẳng tác ý),
thánh phàm đều quên, năng sở đều diệt, tánh tướng như như, thì không lúc nào
chẳng phải định vậy. Trí Hoàng do đó đại ngộ, cái tâm sở đắc từ hai mươi năm
đến nay đều tan rã chẳng còn hình bóng. Sau từ giã Sư về nơi Hà Bắc hoằng pháp,
khai hoá tứ chúng.
Có một đồng tử tên là
Thần Hội, họ Cao, ở Tương Dương. Lúc mười ba tuổi từ chùa Ngọc Tuyền đến tham
lễ. Sư
nói: Tri
thức từ xa đến khổ nhọc, có đem theo cái bản lai đến chăng? Nếu có bản lai thì
phải biết chủ nhơn, thử nói xem! Hội đáp: Lấy vô trụ làm
bản, cái thấy tức là chủ. Sư nói: Sa di này hay nói càn! Hội lại hỏi:Hoà Thượng
toạ thiền thấy hay chẳng thấy? Sư cầm cây gậy đánh cho ba cái, hỏi: Ta đánh ngươi có đau hay
chẳng đau? Ðáp: Cũng đau cũng không đau. Sư nói: Ta cũng thấy
cũng chẳng thấy! Hỏi:Thế nào là cũng thấy cũng chẳng thấy? Sư nói: Cái thấy của ta, thường
thấy lỗi của tự tâm, chẳng thấy phải quấy tốt xấu của người, cho nên cũng thấy
cũng chẳng thấy. Ngươi nói cũng đau cũng chẳng đau là thế nào? Nếu chẳng đau
thì đồng với cỏ đá, nếu đau thì đồng với phàm phu, liền khởi sân hận. Ngươi vừa
hỏi thấy, không thấy là nhị biên (đối đãi), nói đau, không đau là sanh diệt, tự
tánh ngươi còn chẳng tự thấy mà dám đùa người khác! Thần Hội bèn lễ bái cầu xin
sám hối. Sư lại nói: Ngươi nếu tâm mê chẳng thấy, cần
phải hỏi thiện tri thức để chỉ đường, ngươi nếu tâm ngộ tức tự thấy tánh, phải
y pháp tu hành. Nay ngươi mê chẳng thấy tự tâm, lại đến hỏi ta thấy hay không
thấy, ta thấy tự ta biết, chẳng dính dáng cái mê của ngươi, ngươi nếu tự thấy,
cũng chẳng dính dáng cái mê của ta, sao chẳng tự thấy tự biết, mà lại hỏi ta
thấy hay chẳng thấy! Thần Hội lại lễ thêm hơn trăm lạy, xin sám hối tội lỗi, ân
cần hầu hạ bên Sư chẳng rời. Một hôm Sư bảo chúng: Ta có một vật, chẳng đầu
chẳng đuôi, chẳng danh chẳng tự, chẳng lưng chẳng mặt, các ngươi có biết chăng? Thần Hội bèn ra nói: Ấy
là bổn nguyên của chư Phật, Phật tánh của Thần Hội. Sư nói: Ðã nói với ngươi là
chẳng danh chẳng tự, ngươi bèn gọi là bổn nguyên Phật tánh, ngươi sau này dẫu
cho có ra hoằng pháp cũng chỉ thành một môn đồ tri giải mà thôi. Sau khi Lục Tổ
viên tịch, Thần Hội vào trong Kinh thành Lạc Dương, rộng truyền đốn giáo của
Tào Khê, soạn bộ Hiển Tông Ký, thịnh hành nơi đời, hiệu là Hà Trạch Thiền Sư.
Tăng hỏi Sư: Ý chỉ của
Huỳnh Mai người nào được? Sư đáp: Người hiểu Phật pháp được. Hỏi: Hoà Thượng có được
chăng? Ðáp: Ta chẳng hiểu Phật pháp.
Một hôm, Sư muốn giặt
cái y của Ngũ Tổ truyền thọ mà xung quanh không có suối tốt, nên đi đến cách
sau chùa năm dặm, thấy có núi rừng xanh biếc, thoại khí vòng quanh (thoại khí
là triệu chứng tốt lành hiện trên không khí, nhưng phải là người có pháp nhãn
mới thấy được.) Sư dộng tích trượng xuống đất, nước suối ngay đó trào ra, chảy
thành cái ao. Sư quỳ trên đá mà giặt y. Có vị Tăng ở Tây Thục tên là Phương
Biện đến lễ Sư, Sư hỏi: Thượng Tọa làm nghề gì? Ðáp: Thợ đắp tượng.Sư nghiêm
mặt lại nói: Ngươi thử đắp ta xem! Biện ngơ ngác, qua mấy ngày sau đắp xong
chơn tượng, cao bảy tấc, nét mặt tánh tình đều được tỏ bày khéo léo. Sư cười
nói: Ngươi khéo tánh đắp tượng mà chẳng hiểu tánh Phật. Sư rờ đầu thọ ký, dặn
phải trọn làm phước điền cho trời người; rồi lấy y mà trả công. Biện chia y làm
ba phần: một phần đắp lên pho tượng, một phần tự giữ lấy, một phần lấy lá cây
kè gói lại, xong chôn dưới đất, nguyện rằng: Cho tôi đời sau được y này, làm
trụ trì nơi đây, xây dựng lại chùa chiền. Ðến năm thứ tám, niên hiệu Gia Hữu
đời Nhà Tống (1056-1063, cách đó 380 năm), có vị Tăng tên là Duy Tiên đến đó tu
sửa lại chùa chiền, đào đất được y còn như mới. Pho tượng của Sư còn giữ ở chùa
Cao Tuyền.
Có vị Tăng đem bài kệ
của Ngọa Luân thiền sư lập lại với Sư, Kệ rằng:
Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng,
Năng đoạn bá tư tưởng.
Ðối cảnh tâm bất khởi,
Bồ đề nhựt nhựt trưởng.
Dịch nghiã:
Ngoạ Luân có bản lãnh,
Dứt được trăm tư tưởng.
Ðối cảnh tâm chẳng khởi,
Bồ đề luôn luôn trưởng.
Sư nghe xong nói: Kệ này chưa rõ tâm địa,
nếu theo đó mà hành thì lại thêm trói buộc. Do đó khai thị một bài kệ:
Huệ Năng một kỹ lưỡng,
Bất đoạn bá tư tưởng.
Ðối cảnh tâm số khởi,
Bồ đề tác ma trưởng.
Dịch nghiã:
Huệ Năng không bản lãnh,
Chẳng dứt trăm tư tưởng.
Bồ đề làm sao trưởng!
Lúc Sư hoằng pháp tại
chùa Bửu Lâm, Tào Khê, ở miền Nam, thì Thần Tú Ðại Sư tại chùa Ngọc Tuyền, Kinh
Nam, ở miền Bắc. Thời ấy hai tông thịnh hành, người đời xưng là Nam Năng, Bắc
Tú, nên có Nam Bắc đốn tiệm hai tông, mà người học đạo chẳng biết tông chỉ của
Nam Bắc như thế nào. Sư bảo chúng: Pháp vốn một tông mà người có Nam
Bắc; pháp chỉ một thứ nhưng sự thấy có nhanh chậm. Sao gọi là đốn tiệm? Pháp
chẳng đốn tiệm, theo căn tánh con người thì có lợi độn, nên gọi đốn tiệm. Nhưng
đồ chúng của Thần Tú thường hay khinh chê Tổ Sư ở miền Nam là người
chẳng biết chữ, đâu có gì hay? Thần Tú nói: Lục Tổ đắc Vô Sư Trí, triệt ngộ
pháp tối thượng thừa, ta chẳng bằng được. Vả lại được Thầy ta Ngũ Tổ thân
truyền y pháp, đâu phải khi không mà được! Ta tiếc chẳng thể đi xa để được thân
cận, uổng chịu quốc ân. Các ngươi chớ bị kẹt nơi đây, nên đi đến Tào Khê để
tham học. Một hôm, Thần Tú sai môn đồ Chí Thành: Ngươi thông minh có trí, hãy
thay ta đến Tào Khê nghe pháp, tận tâm ghi nhớ các điều thấy nghe, về lập lại
cho ta. Chí Thành vâng lời, bèn đến Tào Khê, theo chúng tham học mà chẳng nói
từ chỗ nào đến. Lúc đó Sư bảo chúng: Nay có kẻ trộm pháp đang ẩn trong hội này.
Chí Thành bèn bước ra lễ bái, bạch rõ nguyên do. Sư nói: Ngươi từ Ngọc Tuyền đến
tức là mật thám vậy. Ðáp: Chẳng phải. Sư nói: Sao lại chẳng phải? Ðáp: Lúc chưa nói ra thì
phải, nói ra rồi thì chẳng phải. Sư hỏi: Thầy ngươi lấy gì để dạy chúng? Ðáp: Thầy tôi thường
khuyên dạy chúng trụ tâm quán tịnh, ngồi mãi chẳng nằm. Sư nói: Trụ tâm quán tịnh là
bệnh chứ chẳng phải thiền, ngồi mãi là trói thân, với đạo có ích lợi gì? Hãy
nghe kệ đây:
Sanh lai tọa bất ngọa,
Tử khứ ngọa bất tọa.
Nguyên thị xú cốt đầu,
Hà vi lập công khoá.
Dịch nghiã:
Lúc sống thì ngồi chẳng
nằm,
Lúc chết thì nằm chẳng
ngồi.
Vốn là đống xương hôi
thúi,
Ðâu thể thành lập công
phu?
Chí Thành lại lễ Sư: Ðệ
tử ở nơi Thần Tú Ðại Sư học đạo chín năm mà chẳng được khế ngộ, nay nghe Hoà
Thượng một lời liền khế ngộ bản tâm. Sanh tử của đệ tử là việc lớn, xin Hoà
Thượng từ bi chỉ dạy thêm. Sư nói: Ta nghe nói Thầy ngươi
dạy người học pháp: giới, định, huệ; chẳng biết hành tướng giới định huệ như
thê nào, hãy nói thử xem. Chí Thành nói: Thần Tú Ðại Sư nói: những điều ác
chớ làm gọi là giới, những điều lành phụng hành gọi là huệ, ý căn tự trong sạch
gọi là định. Ðại Sư dạy như thế, chưa biết Hoà Thượng lấy pháp gì để dạy người? Sư nói: Nếu nói có pháp dạy
người ấy là dối ngươi, ta chỉ tuỳ theo căn cơ để mở trói, giả danh tam muội. Như giới định huệ của
Thầy ngươi thật là bất khả tư nghì, giới định huệ của ta lại khác. Hỏi: Giới định huệ chỉ
nên có một, sao lại có khác? Sư nói: Giới định huệ của Thầy
ngươi độ người đại thừa, giới định huệ của ta tiếp người tối thượng thừa, chỗ
ngộ giải chẳng đồng nên sự thấy có nhanh chậm. Hãy nghe ta nói, xem có
giống Thầy ngươi chăng! Ta thuyết pháp chẳng lià tự tánh, lià tánh thuyết pháp,
khiến cho tự tánh thường mê, ấy là tướng thuyết. Nên biết tất cả pháp đều từ tự
tánh khởi dụng, ấy là chơn pháp của giới định huệ vậy. Hãy nghe kệ đây:
Tâm địa vô phi tự tánh
giới,
Tâm địa vô si tự tánh
huệ,
Tâm địa vô loạn tự tánh
định.
Bất tăng bất giảm tự kim
cang,
Thân khứ thân lai bổn
tam muội.
Dịch nghiã:
Tâm địa chẳng quấy tự
tánh giới,
Tâm địa chẳng si tự tánh
huệ,
Tâm địa chẳng loạn tự
tánh định.
Chẳng thêm chẳng bớt tự
như như,
Thân đến thân đi vốn tam
muội.
Chí Thành nghe xong cảm
tạ, trình kệ rằng:
Ngũ uẩn huyễn thân,
Huyễn hà cứu cánh.
Hồi thú chơn như,
Pháp hườn bất tịnh.
Dịch nghiã:
Ngũ uẩn thân huyễn hoá,
Huyễn đâu có cứu cánh.
Trở về với chơn như,
Chấp pháp vẫn chẳng tịnh
(chẳng thanh tịnh)
Sư cho là đúng, lại bảo Chí Thành: Giới định huệ của Thầy
ngươi dạy người căn khí nhỏ, giới định huệ của ta dạy người căn khí lớn. Nếu ngộ được tự tánh,
cũng chẳng lập Bồ Ðề Niết Bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến, chẳng có một
pháp có thể đắc, như thế mới được kiến lập vạn pháp. Nếu thấu lý này, cũng gọi
là Bồ Ðề Niết Bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến. Người kiến tánh lập cũng
được, chẳng lập cũng được, đi lại tự do, chẳng trệ chẳng ngại, cần dùng liền
làm, cần nói liền đáp (làm và nói đều chẳng tác ý), khắp hiện hoá thân chẳng
lià tự tánh, tức được thần thông tự tại, du hý tam muội, gọi là kiến tánh. Chí Thành lại bạch: Thế
nào là nghiã Chẳng lập? Sư nói: Tự tánh chẳng quấy chẳng
si chẳng loạn, niệm niệm quán chiếu Bát Nhã, thường lià pháp tướng, tự do tự
tại, thuận nghịch đều được, có gì để lập? Tự tánh tự ngộ, đốn ngộ đốn tu, cũng
chẳng thứ tự, cho nên chẳng lập tất cả pháp, các pháp tịch diệt, đâu có thứ
lớp? Chí Thành lễ bái, nguyện làm thị giả hầu hạ sớm chiều.
Tăng Chí Triệt, họ
Trương tên Hành Xương, người ở Giang Tây, thuở nhỏ tánh hào hiệp. Lúc ấy Nam
Bắc chia ra hai tông, tuy Lục Tổ và Thần Tú Ðại Sư không phân chia bỉ thử,
nhưng đồ chúng lại cạnh tranh với nhau sanh lòng ưa ghét, mà môn đồ bên Bắc
Tông tự lập Thần Tú làm Tổ thứ 6, lại sợ người đời biết được sự truyền y của
Ngũ Tổ, nên sai Hành Xương đến ám sát Lục Tổ. Sư tâm thông đã biết việc này,
bèn lấy mười lượng vàng để nơi ghế ngồi. Lúc tối Hành Xương lén vào thất muốn
ám sát. Sư đưa cổ cho chém. Hành Xương cầm kiếm chém ba lần, chẳng gây vết
thương. Sư nói: Chánh kiến (kiếm) chẳng
tà, tà kiến (kiếm) chẳng chánh (theo Hán tự, chữ kiến với chữ kiếm khác chữ
đồng âm, ở đây là một lời hai nghiã), chỉ nợ ngươi vàng, chẳng nợ ngươi mạng.
Hành Xương kinh sợ ngã xỉu, một hồi lâu mới tỉnh dậy, ăn năn cầu xin sám hối,
bèn xin xuất gia. Sư đưa vàng cho và dặn: Ngươi hãy đi, sợ đồ chúng biết được
sẽ sát hại ngươi, để ngày khác ngươi thay đổi hình dạng rồi trở lại, ta sẽ cho
thỏa nguyện. Hành Xương nghe lời, nửa đêm trốn đi, sau ở nơi khác xuất gia. Một
hôm nhớ đến lời dặn của Sư, bèn từ xa đến tham lễ. Sư nói: Ta chờ ngươi đã lâu, sao
đến trễ vậy? Hành Xương nói: Ngày trước được Hòa Thượng xá
tội, nay dù xuất gia khổ hạnh, nhưng khó mà báo ơn, chỉ mong được Hoà Thượng
truyền pháp để độ chúng sanh. Ðệ tử xem Kinh Niết Bàn, chưa hiểu cái nghiã
thường và vô thường, xin Hoà Thượng từ bi giải thích sơ lược.Sư nói: Vô thường tức Phật tánh,
có thường tức cái tâm phân biệt tất cả pháp thiện ác vậy. Hành Xương nói: Lời của
Hoà Thượng rất nghịch lời văn trong Kinh. Sư nói: Ta được truyền
tâm ấn Phật, đâu dám nghịch ý Kinh! Hành Xương nói: Kinh nói Phật tánh là
thường, Hoà Thượng lại nói là vô thường. Các pháp thiện
ác cho đến Bồ đề tâm đều là vô thường, Hoà Thượng lại nói là thường, ấy là trái
nghịch nhau, khiến đệ tử lại thêm nghi ngờ. Sư nói: Xưa kia ta nghe Ni Vô
Tận Tạng tụng qua một lần Kinh Niết Bàn, bèn vì Ni giải thuyết, chẳng có một
chữ một nghiã không đúng với lời văn trong Kinh, cho đến nay vì ngươi mà
thuyết, trước sau chẳng khác. Hành Xương nói: Ðệ tử căn tánh ngu muội, xin Hoà
Thượng khai thị tỉ mỉ. Sư nói: Ngươi biết chăng, Phật
tánh nếu thường còn nói gì về các pháp thiện ác; cho đến tận kiếp cũng chẳng
một người phát Bồ đề tâm, nên ta nói vô thường, ấy chính là cái đạo chơn thường
do Phật thuyết vậy. Hơn nữa, tất cả các pháp nếu vô thường thì mỗi mỗi đều có
tự tánh riêng biệt để lãnh thọ sanh tử, vậy thì tánh chơn thường khắp nơi lại
có chỗ thiếu sót, nên ta nói thường, ấy chính là nghiã chơn vô thường của Phật.
Phật vì kẻ phàm phu tà đạo chấp nơi tà thường, những người nhị thừa từ nơi
thường, suy ra vô thường, cộng thành tám thứ điên đảo, nên trong Kinh Niết Bàn
liễu nghiã phá những thiên kiến của họ để tỏ bày tứ đức của Niết Bàn: chơn
thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh. Ngươi nay theo lời trái nghiã, lấy đoạn
diệt vô thường và chấp thường là cố định, mà hiểu lầm lời nói sau cùng viên
tròn vi diệu của Phật, dẫu cho xem Kinh ngàn lần, có ích gì đâu? Hành Xương
hoát nhiên đại ngộ, nói kệ rằng:
Nhân thủ vô thường tâm,
Phật thuyết hữu thường
tánh.
Bất tri phương tiện giả,
Du xuân trì thập lịch.
Ngã kim bất thi công,
Phật tánh nhi hiện tiền.
Phi Sư tương thọ dữ,
Ngã diệc vô sở đắc.
Dịch nghiã:
Vì giữ tâm vô thường,
Phật nói tánh có thường.
Kẻ chẳng biết phương
tiện,
Như mò sỏi tưởng vàng,
Nay ta chẳng tác ý,
Phật tánh tự hiện tiền,
Chẳng phải do thầy cho.
Ta cũng vô sở đắc. Sư nói: Ngươi nay đã triệt ngộ,
nên đổi tên Trí Triệt. Trí Triệt lễ tạ lui ra.
LƯỢC GIẢI: Lời của chư Phật chư Tổ
chỉ tạm dùng để phá chấp: nói thường là để phá chấp vô thường, nói vô thường là
để phá chấp thường, chớ không có nghiã thật. Nên Kinh Lăng Nghiêm nói: Hễ là
lời nói thì đều chẳng có nghiã thật. Phẩm tựa đã chỉ rõ Phật tánh phi thường
phi vô thường, do đó mặc dù lời Tổ với lời Phật trái nghịch nhau, nhưng ý Tổ
với ý Phật chẳng khác là nghiã này vậy.
Sư thấy môn đồ các tông tụ tập dưới Pháp toà, đều khởi ác ý vấn nạn. Sư thương xót cho họ nên bảo rằng: Người học đạo cần phải dứt trừ cho sạch tất cả thiện niệm ác niệm, cho đến chẳng còn chỗ để gắn tên, rồi lại gắn tên nơi tự tánh; tự tánh vốn bất nhị, gọi là thật tánh. Từ nơi thật tánh mới kiến lập tất cả giáo môn. (Như vậy, Pháp môn của các tông dù có khác, nhưng đều cùng xuất phát từ một nguồn, vốn chẳng cao thấp, người học đạo chớ nên tranh giành hơn thua mà trái nghịch với đạo). Còn Pháp đốn giáo này thì cần phải ngay đó (chẳng tác ý) tự ngộ tự thấy mới được. Ðại chúng nghe xong thảy đều đảnh lễ, thờ Sư làm Thầy.
Sư thấy môn đồ các tông tụ tập dưới Pháp toà, đều khởi ác ý vấn nạn. Sư thương xót cho họ nên bảo rằng: Người học đạo cần phải dứt trừ cho sạch tất cả thiện niệm ác niệm, cho đến chẳng còn chỗ để gắn tên, rồi lại gắn tên nơi tự tánh; tự tánh vốn bất nhị, gọi là thật tánh. Từ nơi thật tánh mới kiến lập tất cả giáo môn. (Như vậy, Pháp môn của các tông dù có khác, nhưng đều cùng xuất phát từ một nguồn, vốn chẳng cao thấp, người học đạo chớ nên tranh giành hơn thua mà trái nghịch với đạo). Còn Pháp đốn giáo này thì cần phải ngay đó (chẳng tác ý) tự ngộ tự thấy mới được. Ðại chúng nghe xong thảy đều đảnh lễ, thờ Sư làm Thầy.
Phẩm Hộ Pháp Thứ Chín
Ngày rằm tháng giêng niên
hiệu Thần Long nguyên niên, vua Trung Tôn và Võ Tắc Thiên ban chiếu rằng: Trẫm
mời An Quốc Sư và Thần Tú Thiền Sư hai vị vào cung cúng dường, thừa lúc muôn
việc nhàn rảnh để nghiên cứu đạo nhất thừa. Hai Sư khiêm nhượng rằng: Ở miền
Nam có Huệ Năng Thiền Sư được Ngũ Tổ mật phó y pháp, truyền Phật tâm ấn, xin
mời Sư đến để hỏi. Nay sai nội thị Tiết Giản lãnh chiếu đến rước thỉnh, nguyện
Sư từ bi thương xót, mau đến kinh thành. Sư dâng biểu cáo bệnh khước từ và xin
được trọn đời ở trong núi rừng. Tiết Giản hỏi: Các thiền đức nơi kinh thành đều
nói là muốn được ngộ đạo phải ngồi thiền tập định, nếu không nhờ thiền định mà
mong được giải thoát thì chưa hề có vậy. Chưa biết cách dạy bảo của sư như thế
nào? Sư
nói: Ðạo
do tâm ngộ chẳng tại tọa. Kinh nói Nếu nói Như Lai có nằm có ngồi, ấy là kẻ
hành tà đạo. Tại sao vậy? Vì tự tánh chẳng có chỗ đến, cũng chẳng có chỗ
đi, chẳng sanh chẳng diệt, gọi là Như Lai Thanh Tịnh Thiền. Chư
pháp không-tịch là Như Lai Thanh Tịnh Tọa, cứu cánh chẳng có một pháp để chứng
đắc, huống chi là ngồi! Tiết Giản nói: Ðệ tử về Kinh, Hoàng Ðế
ắt hỏi, xin Sư từ bi chỉ thị tâm yếu, để về triều đình tâu lại hai vua và người
học đạo ở kinh thành, thí như một ngọn đèn mồi cho trăm ngàn ngọn, khiến kẻ tối
đều sáng, dùng sáng truyền sáng, sáng mãi chẳng hết. Sư nói: Ðạo chẳng sáng tối, sáng
tối là nghiã sanh diệt. Sáng mãi chẳng hết, cũng phải có lúc hết, vì sáng tối
là đối đãi lập danh, nên Kinh Duy Ma Cật nói: Pháp chẳng thể so sánh, vì chẳng
đối đãi vậy. Tiết Giản nói: Sáng dụ cho trí huệ, tối dụ cho phiền não, người tu
đạo nếu không lấy trí huệ để chiếu phá phiền não thì cái sanh tử đã từ vô thỉ,
dựa vào đâu để ra khỏi? Sư nói: Phiền não tức Bồ đề,
chẳng hai chẳng khác. Nếu nói lấy trí huệ để chiếu phá phiền não, ấy là kiến
giải của kẻ nhị thừa, người đại căn thượng trí thì chẳng như vậy. Hỏi: Thế nào là kiến giải của
người đại thừa? Sư nói: Sáng với chẳng sáng,
phàm phu thấy có nhị, người trí liễu đạt tánh ấy bất nhị, tánh bất nhị tức là
thật tánh vậy. Thật tánh ở nơi phàm ngu mà chẳng bớt, nơi thánh hiền mà chẳng
thêm; trụ nơi phiền não mà chẳng loạn, ngay nơi thiền định mà chẳng tịch, chẳng
đoạn chẳng thường, chẳng đi chẳng đến, chẳng phải ở giữa, cũng chẳng bên trong
bên ngoài, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng biến
đổi, ấy gọi là đạo. Hỏi: Sư nói chẳng sanh chẳng diệt, vậy đâu khác
với ngoại đạo! Ðáp: Ngoại đạo nói chẳng sanh
chẳng diệt, là dùng diệt để dẹp sanh, dùng sanh để tỏ diệt, sanh nơi chẳng
sanh, diệt nơi chẳng diệt. Ta thuyết chẳng sanh chẳng diệt là: tự vốn chẳng
sanh, nay cũng chẳng diệt, cho nên khác với ngoại đạo. Nếu ngươi muốn biết tâm
yếu, nên đối với các pháp thiện ác đều chớ suy lường, tự nhiên được tâm thể
thanh tịnh, trạm nhiên thường tịch, diệu dụng hằng sa. Tiết Giản được chỉ dạy,
hoát nhiên đại ngộ, lễ bái từ giã về kinh, dâng biểu tâu thuật lại lời nói của
Sư. Ngày 3 tháng 9 năm ấy, vua ban chiếu khen ngợi rằng: Thiền Sư cáo bệnh
khước từ, đã vì Trẫm tu hành, làm phước điền cho chúng sanh. Sư như Ngài Duy Ma
Cật, cáo bệnh ở thành Tỳ Da để xiển dương đại thừa, truyền Phật tâm ấn, thuyết
pháp bất nhị. Tiết Giản truyền đạt lại tri kiến Như Lai của Sư chỉ dạy, cũng là
do Trẫm tích tụ phước đức, kiếp trước đã gieo trồng thiện căn, nên được gặp Sư
xuất hiện cùng đời, đốn ngộ pháp tối thượng thừa, cảm đội ơn Sư chẳng thể nào
quên. Nay dâng chiếc Cà sa và bình bát thủy tinh, sai quan thứ sử Thiều Châu tu
sửa lại chùa chiền, sắc phong cho nơi ở cũ của Sư (ở Tân Châu) là Quốc Ân Tự.
Phẩm Phó Chúc Thứ Mười
Một hôm Sư gọi các đệ tử
như Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Ðạt, Thần Hội, Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt,
Chí Ðạo, Pháp Trân, Pháp Như nói: Các ngươi chẳng như người khác, sau khi ta
viên tịch, mỗi người làm Thầy một nơi. Nay ta dạy các ngươi cách thuyết pháp
chẳng đánh mất bản tông. Trước tiên phải y theo pháp môn TAM KHOA, dùng ba mươi
sáu pháp đối, ra vào (khai thị bằng lời nói hay cử chỉ) thường lià nhị biên,
thuyết tất cả pháp chẳng lià tự tánh. Thí như có người hỏi pháp, ý nghiã lời
nói song song, đến và đi làm nhân với nhau, đều dùng pháp đối. Nếu không có đối
đãi thì ba pháp nhị biên và trung đạo đều dứt, chẳng còn chỗ để nương tựa. Pháp
môn Tam Khoa là gì? Là ẤM, NHẬP, GIỚI: ẤM là ngũ ấm; gồm sắc, thọ, tưởng, hành,
thức. NHẬP có mười hai: bên ngoài lục trần, gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp, bên trong lục căn, gồm nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. GIỚI có mười tám:
gồm lục căn, lục trần, lục thức. Tự tánh bao hàm vạn pháp, gọi là Hàm Tạng
Thức. Nếu khởi niệm suy lường tức là chuyển thức, khiến sanh lục thức, ra cửa
lục căn, tiếp xúc lục trần. Như vậy mười tám giới đều từ tự tánh khởi dụng, tự
tánh nếu tà thì khởi mười tám tà, tự tánh nếu chánh thì khởi mười tám chánh,
niệm ác dụng tức chúng sanh dụng, niệm thiện dụng tức Phật dụng. Dụng bằng cách
nào? Là do tự tánh lập ra pháp đối: Ngoại cảnh vô tình có năm đối: Trời đối
đất, nhựt đối nguyệt, sáng đối tối, âm đối dương, thủy đối hỏa, ấy là năm đối.
Pháp tướng ngôn ngữ có mười hai đối: ngữ đối pháp, hữu đối vô, hữu sắc đối vô
sắc, hữu tướng đối vô tướng, hữu lậu đối vô lậu, sắc đối không, động đối tịnh,
thanh đối trược, phàm đối thánh, tăng đối tục, già đối trẻ, lớn đối nhỏ, ấy là
mười hai đối. Tự tánh khởi mười chín đối: dài đối ngắn, tà đối chánh, si đối
huệ, ngu đối trí, loạn đối định, từ đối độc, giới đối quấy, trực đối khúc, thật
đối hư, chông gai đối bằng phẳng, phiền não đối bồ đề, thường đối vô thường, bi
đối hại, hỷ đối sân, bố thí đối bỏn xẻn, tiến đối lui, sanh đối diệt, pháp thân
đối sắc thân, hoá thân đối báo thân, ấy là mười chín đối vậy.ế Sư bảo: ẹBa mươi
sáu pháp đối này nếu biết dùng thì thấu đạo và tất cả Kinh Pháp, ra vào thường
lià nhị biên. Dụng của tự tánh chẳng cần tác ý, nói năng với người, ngoài thì ở
nơi tướng lià tướng, trong thì nơi không lià không. Nếu trọn chấp tướng thì
sanh trưởng tà kiến, nếu trọn chấp không thì sanh trưởng vô minh. Kẻ chấp không
hay phỉ báng Kinh Phật, cho là chẳng cần văn tự, đã nói chẳng cần văn tự thì
con người cũng không nên có lời nói, cái lời nói tức là tướng văn tự. Lại nói
Ðạo ngay thẳng chẳng lập văn tự, thật ra hai chữ chẳng lập cũng là văn tự vậy!
Vừa nghe người thuyết pháp, liền phỉ báng cho là dính mắc văn tự, các ngươi
phải biết, tự mê còn đỡ, lại phỉ báng Kinh Phật. Chớ nên phỉ báng Kinh, để tạo
nhiều tội chướng. Nếu chấp tướng bên ngoài mà vọng lập phương pháp để cầu chơn,
hoặc rộng lập đạo tràng, nói các lỗi lầm của CÓ và KHÔNG, những người như vậy
nhiều kiếp chẳng thể kiến tánh. Các ngươi phải dạy người theo pháp tu hành, chớ
nên trăm điều chẳng nghĩ, làm cho đạo tánh bị ngăn ngại. Nếu thuyết pháp dạy
người, chớ nên nói ẹtự tánh vốn chẳng cần tu chứng, nói như vậy e rằng kẻ mê
chẳng hiểu, lại sanh tà kiến. Chỉ nên dạy người theo pháp tu hành, hành pháp
thí mà chẳng trụ nơi pháp tướng. Các ngươi nếu ngộ thì thuyết như vậy, dụng như
vậy, hành như vậy, tác như vậy tức không đánh mất bản tông. Nếu có người đến
hỏi nghiã, hỏi có thì đáp không, hỏi không thì đáp có, hỏi thánh đáp phàm, hỏi
phàm đáp thánh, nhị biên làm nhân với nhau, sanh nghiã trung đạo. Hỏi nào đáp
nấy, tất cả các câu hỏi khác đều đáp như thế thì chẳng mất cái chánh lý vậy. Như
có người hỏi thế nào là tối? thì đáp sáng, hỏi thế nào là sáng? thì đáp tối. Vì
sáng mất thì tối, tối mất thì sáng, dùng sáng để tỏ sự tối, dùng tối để tỏ sự
sáng, trở đi trở lại làm nhân với nhau thành nghiã trung đạo, tất cả câu hỏi
đều phải như thế. Về sau các ngươi truyền pháp, phải y theo đây mà dạy bảo, chớ
đánh mất tông chỉ.
Vào tháng bảy năm Nhâm
Tý, niên hiệu Thái Cực Diên Hoà (712), Sư sai môn đồ đến Quốc Ân Tự nơi Tân
Châu để xây tháp, đốc thợ làm gấp, đến mùa hè năm sau khánh thành. Ngày mùng một
tháng bảy, Sư tựu tập đồ chúng bảo: Ðến tháng tám ta sẽ rời thế gian, các ngươi
có nghi cứ hỏi sớm đi, ta sẽ phá nghi, khiến các ngươi hết mê hoặc, nếu ta đi
rồi thì chẳng ai dạy bảo. Các môn đồ nghe nói thảy đều rơi lệ, chỉ có Thần Hội
bình tĩnh chẳng động, cũng chẳng rơi lệ. Sư nói: Chỉ có tiểu sư Thần Hội được
sự thiện bất thiện đồng nhau, khen chê chẳng động, vui buồn chẳng sanh, ngoài
ra các ngươi đều chẳng được, bấy lâu nay ở trên núi lại tu đạo gì? Nay các
ngươi rơi lệ là lo buồn cho ai? Nếu nói lo cho ta chẳng biết sẽ đi về đâu, ta
tự biết chỗ đi, nếu ta chẳng biết chỗ đi thì làm sao dự báo trước cho các
ngươi? Các ngươi rơi lệ vì chẳng biết chỗ ta đi, nếu biết chỗ ta đi thì chẳng
nên rơi lệ. Pháp tánh vốn chẳng sanh diệt tới lui. Các ngươi hãy ngồi, ta nói
với các ngươi một bài kệ, gọi là CHƠN GIẢ ÐỘNG TỊNH KỆ, các ngươi giữ lấy kệ
này, theo đó tu hành, chẳng đánh mất tông chỉ, thì cùng ta đồng một ý chí. Ðại
chúng đảnh lễ, xin Sư làm kệ, kệ rằng:
Nhất thiết vô hữu chơn,
Bất dĩ kiến ư chơn.
Nhược kiến ư chơn giả,
Thị kiến tận phi chơn.
Nhược năng tự hữu chơn,
Ly giả tức tâm chơn.
Tự tâm bất ly giả,
Vô chơn hà xứ chơn.
Hữu tình tức giải động,
Vô tình tức bất động,
Nhược tu bất động hạnh.
Ðồng vô tình bất động,
Nhược mích chơn bất
động,
Ðộng thượng hữu bất
động.
Bất động thị bất động,
Vô tình vô Phật chủng.
Năng thiện phân biệt
tướng,
Ðệ nhất nghiã bất động.
Ðản tác như thử kiến,
Tức thị chơn như dụng.
Báo chư học đạo nhơn,
Nỗ lực tu dụng ý,
Mạc ư đại thừa môn,
Khước chấp sanh tử trí.
Nhược ngôn hạ tương ứng,
Tức cộng luận Phật
nghiã.
Nhược thật bất tương
ứng.
Hiệp chưởng linh hoan
hỷ.
Thử tông bổn vô tranh,
Tranh tức thất đạo ý.
Chấp nghịch tranh pháp
môn,
Tự tánh nhập sanh tử.
Dịch nghiã:
Tất cả chẳng có chơn,
Chớ nên cho là chơn.
Nếu người thấy có chơn,
Sự thấy đều chẳng chơn.
Nếu được tự có chơn,
Lià giả, tâm tức chơn.
Tự tâm chẳng lià giả,
(1)
Làm sao có chỗ chơn?
Hữu tình tất phải động,
Vô tình thì bất động.
Nếu tu hạnh bất động,
Ðâu khác loài vô tình!
Muốn tìm chơn bất động,
Nơi động là bất động,
Bất động (vô tình) đã
bất động,
Vô tình vô Phật chủng.
Nếu người khéo phân
biệt,
Ðệ nhất nghiã bất động.
Cái thấy được như vậy,
Tức là chơn như dụng.
Báo cho người học đạo,
Siêng tu phải chú ý.
Chớ nên nơi đại thừa,
Lại chấp trí sanh tử.
Vừa nghe liền tương ưng,
Cùng nhau luận nghiã
Phật.
Nếu người chẳng tương
ưng,
Chắp tay khiến hoan hỷ.
Tông này vốn vô tranh,
Tranh thì mất ý đạo.
Kẻ trái nghịch pháp môn,
Tự tánh vào sanh tư.
GHI CHÚ:
(1) đúng với sai, chân
với giả..đều là giả. Kẻ trái nghịch pháp môn, Tự tánh vào sanh tử.
Ðồ chúng nghe xong thảy
đều đảnh lễ, lãnh hội theo ý của Sư, mọi người tự nhiếp tâm y pháp tu hành,
chẳng dám tranh luận nữa. Ðã biết Sư trụ thế chẳng bao lâu, Thượng Tọa Pháp Hải
lễ bái hỏi: Sau khi Hoà Thượng viên tịch, y pháp nên trao phó cho ai? Sư nói:
Tất cả khai thị kể từ khi ta thuyết pháp ở chùa Ðại Phạn đến nay, ghi chép lại
để lưu truyền cho đời sau, tựa là PHÁP BẢO ÐÀN KINH, các ngươi phải hộ trì trao
truyền cho nhau để hoá độ chúng sanh, y theo Kinh này gọi là Chánh Pháp. Nay chỉ
vì các ngươi truyền pháp mà chẳng truyền y bát, vì các ngươi tín căn đã thuần
thục, quyết định chẳng nghi, đều có khả năng đảm nhiệm việc lớn của chư Phật
chư Tổ truyền lại. Vả lại theo ý bài kệ truyền thọ của Tổ Ðạt Ma thì y cũng
chẳng nên truyền. Kệ rằng:
Ngô bổn lai tư độ,
Truyền pháp cứu mê tình.
Nhứt hoa khai ngũ diệp,
Kết quả tự nhiên thành.
Dịch nghiã:
Ta đến đất nước này,
Truyền pháp cứu người
mê.
Một bông nở năm cánh,
Kết quả tự nhiên thành.
Sư lại nói: Các ngươi
nếu muốn thành tựu nhất thiết chủng trí, phải thấu ngộ nhất tướng tam muội và
nhất hạnh tam muội. Ở tất cả nơi mà chẳng trụ tướng, nơi mọi tướng chẳng sanh
yêu ghét, cũng chẳng lấy bỏ, chẳng nghĩ việc lợi ích thành bại, trong tâm trống
rỗng dung hoà, an nhàn đạm bạc, đây gọi là nhất tướng tam muội. Ở tất cả nơi đi
đứng nằm ngồi, duy nhất hành theo trực tâm, nơi nào cũng là bất động đạo tràng,
như vậy mới thành chơn tịnh độ, đây gọi là nhất hạnh tam muội. Nếu người đủ hai
thứ tam muội này, như gieo giống dưới đất, luôn luôn tưới nước và bón phân,
cuối cùng sẽ được quả chín. Nhất tướng nhất hạnh cũng như vậy. Nay ta thuyết
pháp dụ như mưa lớn, thấm nhuần đại địa, Phật tánh của các ngươi giống như hạt
giống, gặp mưa thấm nhuần liền được sanh trưởng. Nối theo tông chỉ của ta quyết
thành Bồ đề, hành theo pháp ta ắt chứng diệu quả, hãy nghe kệ đây:
Tâm địa hàm chư chủng,
Phổ vũ tất giai manh.
Ðốn ngộ hoa tình dĩ,
Bồ đề quả tự thành.
Dịch nghiã:
Tâm địa chứa nhiều
giống,
Gặp mưa đều nẩy mầm.
Ðốn ngộ tự tâm rồi,
Quả Bồ đề tự thành.
Sư thuyết kệ xong nói:
Pháp chẳng có hai, tự tâm cũng vậy, đạo vốn thanh tịnh (trong sạch), cũng chẳng
các tướng. Các ngươi cẩn thận, chớ nên quán tịnh và chấp không nơi tâm, tự tâm
vốn thanh tịnh, chẳng thể lấy bỏ. Mọi người cứ tùy duyên mà đi, hãy cố gắng tu
hành! Ðồ chúng nghe xong đảnh lễ lui ra.
Ngày mùng 8 tháng 7, Sư
bỗng gọi môn đồ: Ta muốn về Tân Châu, hãy mau lo ghe thuyền. Ðại chúng đều năn
nỉ ở lại, Sư nói: Chư Phật ra đời còn phải thị hiện Niết Bàn, có đến thì có đi,
lý thường như vậy, thể xác của ta tất phải có chỗ về. Chúng nói: Sư từ nay đi,
chừng nào trở về? Sư nói: Lá rụng về cội, trở về chẳng nói. Lại hỏi: Chánh Pháp
Nhãn Tạng truyền phó cho ai? Sư nói: Người có đạo thì được, người vô tâm thì
thông. Lại hỏi: Chưa biết xưa nay chư Phật chư Tổ ứng hiện, truyền thọ được bao
nhiêu đời? Xin Sư cho biết. Sư nói: Cổ Phật ứng thế đã vô số lượng, chẳng thể
tính được, nay từ thất Phật bắt đầu: Quá khứ Trang Nghiêm Kiếp: Tỳ Ba Thi Phật,
Thi Khí Phật, Tỳ Xá Phù Phật. Hiện tại Hiền Kiếp: Câu Lưu Tôn Phật, Câu Na Hàm
Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật, ấy là thất Phật. Thích Ca Văn
Phật đầu ti&eci
Tâm ta tự có Phật,
Tự Phật là chơn Phật.
Nếu tự chẳng Phật tâm,
Nơi nào tìm chơn Phật?
Các ngươi tự tâm là
Phật, chớ hồ nghi nữa. Vạn pháp đều từ tự tâm sanh khởi, chẳng phải vật bên
ngoài có thể kiến lập. Nên Kinh nói: Tâm sanh thì mọi pháp sanh, tâm diệt thì
mọi pháp diệt." Nay ta để lại bài kệ để làm lời từ biệt, gọi là: TỰ TÁNH
CHƠN PHẬT KỆ, người đời sau nhận được ý của kệ này, tự thấy bản tâm, tự thành
Phật đạo. Kệ rằng:
Chơn như tự tánh thị
chơn Phật,
Tà kiến tam độc thị ma
vương.
Tà mê chi thời ma tại
xá,
Chánh kiến chi thời Phật
tại đường.
Tánh trung tà kiến tam
độc sanh,
Tức thị ma vương lai trụ
xá.
Chánh kiến tự trừ tam
độc tâm,
Ma biến thành Phật chơn
vô giả.
Pháp thân báo thân cập
hoá thân,
Tam thân bổn lai thị
nhất thân.
Nhược hướng tánh trung
năng tự kiến,
Tức thị thành Phật Bồ đề
nhân.
Bổn tùng hoá thân sanh
tịnh tánh,
Tịnh tánh thường tại hoá
thân trung.
Tánh sử hoá thân hành
chánh đạo,
Ðương lai viên mãn chơn
vô cùng.
Dâm tánh bổn thị tịnh
tánh nhân,
Trừ dâm tức thị tịnh
tánh thân.
Tánh trung các tự ly ngũ
dục,
Kiến tánh sát na tứ thị
chơn.
Kim sanh nhược ngộ đốn
giáo môn,
Hốt ngộ tự tánh kiến Thế
Tôn.
Nhược dục tu hành mích
tác Phật,
Bất tri hà xứ nghĩ cầu
chơn.
Nhược năng tâm trung tự
kiến chơn,
Hữu chơn tức thị thành
Phật nhân.
Bất kiến tự tánh ngoại
mích Phật,
Khởi tâm tổng thị đại si
nhơn.
Ðốn giáo pháp môn kim dĩ
lưu,
Cứu độ thế nhơn tu tự
tu.
Báo nhữ đương lai học
đạo giả,
Bất tác thử kiến đại du
du.
Dịch nghiã:
Chơn như tự tánh là chơn
Phật,
Tà kiến tam độc là ma
vương.
Lúc tà mê khởi ma tại
nhà,
Khi có chánh kiến Phật
tại điện,
Tâm nổi tà kiến tam độc
sanh,
Tức là ma vương đến nhà
ở.
Chánh kiến khởi lên tam
độc trừ,
Ma trở thành Phật thật
chẳng giả.
Pháp thân báo thân và
hoá thân,
Tam thân vốn chỉ là nhất
thân.
Nếu được tự thấy nơi tự
tánh,
Gieo nhân Bồ Ðề tức
thành Phật.
Vốn từ hoá thân sanh
tịnh tánh,
Tịnh tánh thường trụ nơi
hoá thân.
Tánh khiến hoá thân hành
chánh đạo,
Tương lai viên mãn vô
cùng tận.
Dâm tánh vốn là nhân
tịnh tánh,
Trừ dâm tức là tịnh tánh
thân.
Nơi tánh thường tự lià
ngũ dục,
Sát na kiến tánh tức là
chơn.
Ðời nay nếu gặp pháp đốn
giáo,
Hoát ngộ tự tánh gặp Thế
Tôn.
Người nếu tu hành cầu
làm Phật,
Chẳng biết nơi nào để
cầu chơn.
Nếu ngay nơi tâm tự thấy
chơn,
Có chơn tức là nhân
thành Phật.
Chẳng thấy tự tánh,
ngoài tìm Phật,
Khởi tâm tìm Phật là si
mê.
Pháp môn đốn giáo nay đã
truyền,
Cứu độ chúng sanh phải
tự tu.
Báo cho tương lai người
học đạo,
Chẳng theo chánh kiến
mãi mãi chìm.
Sư thuyết kệ xong, bảo:
Các ngươi phải tự hộ trì, sau khi ta viên tịch, chớ nên theo tình chấp thế gian
rơi lệ buồn sầu, nhận phúng điếu và để tang, làm như vậy chẳng phải đệ tử của
ta, cũng chẳng phải Chánh Pháp. Chỉ nên nhận tự bản tâm, thấy tự bản tánh,
chẳng động chẳng tịnh, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng lui chẳng tới, chẳng thị
chẳng phi, chẳng trụ chẳng đi. Vì sợ các ngươi tâm mê, chẳng hiểu ý ta, nay
nhắc lại lần nữa, khiến các ngươi tự thấy tánh. Sau khi ta viên tịch, theo đây
tu hành, cũng như ta còn tại thế, nếu trái với lời dạy của ta, dẫu cho ta còn
tại thế, cũng đâu có ích lợi gì! Lại thuyết kệ rằng:
Ngột ngột bất tu thiện,
Ðằng đằng bất tạo ác.
Tịch tịch đoạn kiến văn,
Ðãng đãng tâm vô trước.
Dịch nghiã:
Ngây ngây chẳng tu
thiện,
Bừng bừng chẳng tạo ác.
Tịch tịch dứt thấy nghe,
Luôn luôn chẳng dính
mắc.
Sư thuyết kệ xong, ngồi
ngay cho đến canh ba, thoạt gọi môn đồ: Ta đi nhé!, liền ngồi yên viên tịch.
Ngay lúc ấy có mùi hương lạ thơm khắp núi, mống trắng mọc vòng cầu chấm đất,
rừng cây biến thành màu trắng, cầm thú kêu vang thảm thiết. Ðến tháng Mười một,
các quan chức và Tăng tục ba quận Quảng Châu, Thiều Châu, Tân Châu tranh nhau
giành rước nhục thân của Sư, chẳng quyết định được về đâu, bèn cùng nhau đốt
hương nguyện rằng: Khói hương bay về đâu thì nhục thân của Sư về đó. Lúc ấy
khói hương bay thẳng về hướng Tào Khê. Ngày 13 tháng 11, dời khám thờ nhục thân
và y bát của Sư về Tào Khê. Ngày 25 tháng 7 năm sau mở khám để nhập tháp. Quan
sở tại Thiều Châu dâng biểu tâu lên triều đình, vua sắc chỉ lập bia ghi đạo
hạnh của Sư: Tổ Sư 76 tuổi, năm 24 tuổi được truyền y pháp, 39 tuổi xuống tóc,
thuyết pháp lợi sanh 37 năm, người đắc tông chỉ nối pháp được 43 vị, người nghe
pháp ngộ đạo siêu phàm thì chẳng biết số lượng. Tín y truyền từ Tổ Ðạt Ma, với
cái y bát của vua Trung Tôn ban cho, cái chơn tượng do Phương Biện đắp, và toạ
cụ của Sư, thảy đều giao cho thị giả giữ tháp, đời đời thờ nơi BỬU LÂM ÐAO
TRÀNG. Lưu truyền PHÁP BẢO ÐÀN KINH để hiển bày tông chỉ, hưng thạnh Tam Bảo,
phổ biến lợi ích cho chúng sanh.
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóa